Toàn văn báo cáo công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chủ tịch nước

Ngày 20-10, tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã nghe Chủ tịch nước Lương Cường trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chủ tịch nước. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu toàn văn Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chủ tịch nước.

Theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và Chương trình kỳ họp lần thứ mười, Quốc hội khóa XV, Chủ tịch nước trân trọng báo cáo Quốc hội về tình hình, kết quả công tác nhiệm kỳ 2021-2026 như sau:

Tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi; nhiều vấn đề mới chưa có tiền lệ, đặc biệt đại dịch Covid-19 để lại hậu quả nặng nề. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn và là nguyện vọng chung của các dân tộc; song xung đột, chiến tranh cục bộ, chính trị cường quyền, cạnh tranh chiến lược nước lớn và việc sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế đang trỗi dậy với tốc độ báo động. Trong khi các điểm nóng an ninh truyền thống ở nhiều khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục bế tắc, thì các thách thức an ninh phi truyền thống đang trở nên ngày càng gay gắt hơn, đặc biệt là dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh mạng; chủ nghĩa bảo hộ, chiến tranh thương mại, phân mảng, toàn cầu hóa và đứt gãy chuỗi cung do cạnh tranh địa chính trị đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Đất nước sau 40 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức do tác động bất lợi từ bên ngoài, ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, dịch bệnh và phải tập trung giải quyết những yếu kém tồn đọng, cũng như những vấn đề phức tạp mới nảy sinh. 4 nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt dần được khắc phục, song có mặt diễn biến phức tạp, gay gắt hơn.

 Chủ tịch nước Lương Cường trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026. Ảnh: TRỌNG HẢI

Chủ tịch nước Lương Cường trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026. Ảnh: TRỌNG HẢI

Nhiệm kỳ 2021-2026 là một nhiệm kỳ đặc biệt với nhiều sự thay đổi nhân sự ở các cấp, đặc biệt là nhân sự cấp cao của Đảng, Nhà nước, trong đó có nhân sự Chủ tịch nước; với việc thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân. Trong bối cảnh đó, trên các cương vị, trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó (Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, đại biểu Quốc hội khóa XV), Chủ tịch nước đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong hệ thống chính trị, nỗ lực thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và những nhiệm vụ theo phân công của Đảng; góp phần tích cực cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy sức mạnh đại đoàn kết, ý chí và khát vọng vươn lên, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các Nghị quyết của Quốc hội khóa XV, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.

Phần thứ nhất

KẾT QUẢ CÔNG TÁC NHIỆM KỲ 2021-2026

I. Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Trên cương vị là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước đã cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, tập thể Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương thực hiện đầy đủ chương trình làm việc toàn khóa và hằng năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị; tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; quyết định những chủ trương, chính sách quan trọng về đối nội, đối ngoại; lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng, xử lý các vấn đề hệ trọng phát sinh trong thực tiễn; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước.

Chủ tịch nước đã thực hiện tốt các công việc, nhiệm vụ theo phân công của Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư với tinh thần trách nhiệm cao, bảo đảm chất lượng, hiệu quả theo đúng yêu cầu đề ra. Trên cương vị là Trưởng ban Chỉ đạo, Chủ tịch nước đã chủ trì, chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ chức xây dựng thành công một số đề án lớn, rất quan trọng trình Trung ương, nổi bật là:

(1) Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” đã được Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII thống nhất thông qua và ban hành Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày 9-11-2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một Nghị quyết chuyên đề về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

(2) Đề án “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Chủ tịch nước đã chỉ đạo chặt chẽ các ban, bộ, ngành, địa phương tổng kết thực tiễn, tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề, xây dựng Báo cáo Tổng kết, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII thông qua Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24-11-2023 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là văn kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là sự tổng kết, kế thừa, phát huy quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc và những quan điểm, tư tưởng, bài học kinh nghiệm rút ra từ các nhiệm kỳ trước; đồng thời, thể hiện tư duy mới, sáng tạo, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

(3) Đề án “Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong 40 năm qua ở Việt Nam”. Chủ tịch nước đã chủ trì, chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành tổng kết công phu, khách quan, khoa học, biện chứng; xây dựng và hoàn thiện dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới ở Việt Nam. Đây là công việc rất hệ trọng, góp phần hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn giúp cho Đảng hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn, bảo đảm thắng lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Chủ tịch nước đã cùng tập thể Bộ Chính trị chỉ đạo xây dựng và thông qua nhiều đề án lớn, quan trọng như: Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đạo tạo và Nghị quyết số 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; đặc biệt là việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp đã đạt được những kết quả quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước phát triển.

II. Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn trong hoạt động đối nội

1. Về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức nhân sự cấp cao của Nhà nước

Chủ tịch nước đã giới thiệu nhân sự đề nghị Quốc hội: bầu Thủ tướng Chính phủ, Phó chủ tịch nước; miễn nhiệm và bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn Phó chủ tịch và Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Căn cứ vào các nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước đã quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 đối với 59 trường hợp; cách chức 1 trường hợp; tạm đình chỉ công tác, tạm thôi giữ chức 2 trường hợp (Phụ lục 1); chủ trì, trao quyết định bổ nhiệm, góp phần kịp thời kiện toàn nhân sự cấp cao, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước được liên tục, thông suốt.

2. Về nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến lĩnh vực lập pháp

Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo chủ trương của Đảng ngay sau khi Nghị quyết được Quốc hội thông qua.

Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm của Quốc hội khóa XV, Chủ tịch nước đã tham gia tích cực, đóng góp ý kiến với Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là các luật, nghị quyết liên quan đến tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; tư pháp, quốc phòng, an ninh; đối ngoại và hội nhập quốc tế... Qua đó, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, bảo đảm quản trị quốc gia bằng Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.

Chủ tịch nước đã chỉ đạo rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong một số luật như: Luật Thi đua, khen thưởng; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Dẫn độ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quốc tịch Việt Nam; Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc...

Nhiệm kỳ 2021 - 2026, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố 99 luật và 7 pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV thông qua (tăng hơn 37% về số lượng so với nhiệm kỳ trước), bảo đảm kịp thời, đúng thời hạn theo quy định. Các đạo luật được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới thể hiện quyết tâm chính trị rất cao trong việc tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế, khơi thông các nguồn lực, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, vững chắc cho việc nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân; đẩy mạnh cải cách hành chính, tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Chủ tịch nước đã chỉ đạo Văn phòng Chủ tịch nước phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước kịp thời, đúng quy định, tạo cơ sở pháp lý cho việc tuân thủ và thực thi pháp luật trong thực tiễn, góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác phối hợp, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chủ tịch nước và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức buổi làm việc để trao đổi, đánh giá những kết quả đã đạt được, đề ra phương hướng, biện pháp nhằm bảo đảm triển khai kịp thời, có hiệu quả các nội dung công việc thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi bên. Chủ tịch nước phân công Phó chủ tịch nước thường xuyên tham dự các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tham gia ý kiến đóng góp trong công tác xây dựng pháp luật và những vấn đề có liên quan, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa Chủ tịch nước và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Nhiệm kỳ 2016 - 2021, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố 72 Luật, 2 Pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV thông qua. Với trách nhiệm là đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch nước đã tham dự đầy đủ các kỳ họp Quốc hội; các hoạt động của Đoàn đại biểu nơi ứng cử; thực hiện nghiêm túc việc tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp Quốc hội, liên hệ chặt chẽ, chịu sự giám sát của cử tri; lắng nghe, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri, kịp thời thông tin đến cử tri về những vấn đề cử tri quan tâm, cũng như xem xét, giải quyết ý kiến phản ánh, kiến nghị của cử tri với Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan có liên quan; góp phần tháo gỡ những điểm nghẽn, bất cập trong phát triển kinh tế - xã hội, những vấn đề bức xúc trong dư luận xã hội liên quan đến tình hình đời sống, sản xuất của người dân và doanh nghiệp.

3. Về nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến lĩnh vực hành pháp

Trên các cương vị được giao, Chủ tịch nước luôn quan tâm sâu sát đến tình hình mọi mặt của đất nước, đặc biệt là đời sống của nhân dân và việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch nước thường xuyên đi công tác cơ sở, thăm và làm việc tại nhiều địa phương trong cả nước để nắm tình hình thực tiễn, trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo, định hướng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại và cải cách tư pháp của địa phương. Trong các chuyến công tác, Chủ tịch nước luôn dành sự quan tâm thiết thực đến công tác an sinh xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách, người yếu thế trong xã hội; thăm, động viên, tặng quà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh, bệnh binh, gia đình chính sách, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh. Qua thực tiễn công tác, Chủ tịch nước đã tham gia đóng góp ý kiến với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan trong việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các Chương trình mục tiêu quốc gia, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.

Hằng năm, Chủ tịch nước đều dự Hội nghị tổng kết công tác của Chính phủ với các địa phương. Chủ tịch nước phân công Phó chủ tịch nước tham dự các phiên họp của Chính phủ, đóng góp ý kiến về một số nội dung quan trọng, duy trì mối liên hệ chặt chẽ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm giải quyết hiệu quả các vấn đề quốc kế, dân sinh của đất nước.

Công tác điều ước quốc tế là nhiệm vụ có tính chất pháp lý - đối ngoại rất quan trọng, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của người đứng đầu Nhà nước. Chủ tịch nước đã thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm, xem xét kỹ lưỡng, đánh giá toàn diện các nội dung ký kết, bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần tạo cơ sở pháp lý và chính trị vững chắc để thúc đẩy quan hệ đối ngoại, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước. Trong nhiệm kỳ 2021-2026, Chủ tịch nước đã: (i) trình Quốc hội xem xét, quyết định phê chuẩn Văn kiện gia nhập CPTPP của Vương Quốc Anh; (ii) ủy quyền đàm phán, ủy quyền ký, phê chuẩn, sửa đổi đối với 85 điều ước quốc tế về hợp tác tín dụng với các tổ chức tài chính quốc tế; (iii) ủy quyền đàm phán, ủy quyền ký, phê chuẩn, gia hạn, gia nhập 46 điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án, phòng chống tội phạm, lao động, khoa học - công nghệ, tài chính - thuế và các lĩnh vực hợp tác khác (Phụ lục 3).

Chủ tịch nước thường xuyên quan tâm, chỉ đạo đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, tạo động lực thúc đẩy các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và Nhân dân nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của đất nước. Chủ tịch nước đã trực tiếp làm việc, chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, bảo đảm thực chất, đúng người, đúng việc, có tính giáo dục, lan tỏa, nêu gương; bảo đảm chính sách khen thưởng không bỏ sót, không để người có công không được ghi nhận; giải quyết dứt điểm những tồn đọng, khó khăn, vướng mắc, nhất là khen thưởng thành tích kháng chiến, cấp đổi, cấp lại bằng, hiện vật khen thưởng; chỉ đạo khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm các sự kiện trọng đại của đất nước; khen thưởng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã có nhiều công lao, đóng góp to lớn trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc; tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng, sắp xếp tổ chức bộ máy, hoàn thiện pháp luật về thi đua, khen thưởng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong nhiệm kỳ 2021-2026, Chủ tịch nước đã quyết định tặng thưởng: 466.601 Huân chương, Huy chương; 6.583 danh hiệu vinh dự Nhà nước, trong đó có 7 Huân chương sao vàng, 42 Huân chương Hồ Chí Minh, 1.243 danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 129 danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 13 danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (Phụ lục 4). Qua đó, kịp thời biểu dương, động viên, ghi nhận các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực, góp phần phục vụ hiệu quả việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; khen thưởng phục vụ các dịp lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước.

Chủ tịch nước đã xem xét, quyết định cho thôi, cho nhập và trở lại quốc tịch Việt Nam đối với 18.022 trường hợp, bảo đảm đúng quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, để quốc tịch Việt Nam trở thành sợi dây liên kết, gắn bó người Việt sống xa Tổ quốc với quê hương, nguồn cội, góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình phát triển đất nước (Phụ lục 5).

4. Về nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến lĩnh vực tư pháp

Trên cương vị Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Chủ tịch nước đã chủ trì 8 Phiên họp của Ban Chỉ đạo, cho ý kiến về các Đề án, Báo cáo do các bộ, ngành trình Ban Chỉ đạo và Chủ tịch nước; lãnh đạo, chỉ đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan liên quan đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9-11-2022 và Kế hoạch số 11-KH/TW ngày 28-11-2022 của Bộ Chính trị triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW; kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số đạo luật liên quan để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Chỉ đạo các cơ quan tư pháp thực hiện sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy theo chủ trương của Đảng; tổng kết công tác cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2021 - 2026, xác định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2026 - 2031; tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tổ chức, công tác thi hành pháp luật về tư pháp và chất lượng đội ngũ cán bộ, góp phần xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ, chức danh tư pháp được thực hiện theo đúng quy định; chất lượng đội ngũ cán bộ giữ các chức danh tư pháp ngày một nâng cao, cơ bản đáp ứng đủ về số lượng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thực sự liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong nhiệm kỳ 2021 - 2026, Chủ tịch nước đã quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, kéo dài thời gian giữ chức vụ đối với 7 Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, 5 Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 7 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 12 Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 3.800 Thẩm phán; quyết định miễn nhiệm 33 Thẩm phán, cách chức 1 Thẩm phán (Phụ lục 2).

Chủ tịch nước đã quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Luật đặc xá năm 2018, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chủ tịch nước đã 5 lần ban hành quyết định đặc xá tha tù trước thời hạn cho 31.319 người (tăng hơn 7 lần so với nhiệm kỳ trước) nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn, đáp ứng yêu cầu về đối nội và đối ngoại của đất nước; chỉ đạo Hội đồng tư vấn đặc xá, các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm hỗ trợ tạo điều kiện để người đặc xá trở về đoàn tụ với gia đình, sớm ổn định cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng. Công tác đặc xá trong nhiệm kỳ được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm dân chủ, công bằng, khách quan, công khai, minh bạch; thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước và truyền thống nhân đạo của dân tộc ta đối với người phạm tội, khuyến khích họ hối cải, rèn luyện, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội; được nhân dân, dư luận đồng thuận, ủng hộ, cộng đồng quốc tế quan tâm theo dõi, đánh giá tích cực.

Công tác xét đơn xin ân giảm án tử hình được thực hiện thận trọng, khách quan, chặt chẽ, nhân văn, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, quyền của người bị kết án tử hình. Chủ tịch nước đã sát sao, quyết liệt chỉ đạo Văn phòng Chủ tịch nước chủ động phối hợp với các cơ quan tư pháp tăng cường cán bộ biệt phái để tập trung giải quyết triệt để tồn đọng hồ sơ án tử hình, cơ bản hoàn thành trong năm 2025.

Xuất phát từ thực tiễn công tác xét đơn xin ân giảm án tử hình, nhất là những khó khăn, vướng mắc, bất cập của hệ thống pháp luật, Chủ tịch nước đã dành nhiều tâm huyết, trăn trở, suy nghĩ, báo cáo Bộ Chính trị giao Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì xây dựng Đề án “Rà soát, đánh giá những bất cập trong Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan đến hình phạt tử hình và thi hành án tử hình; nghiên cứu giảm bớt tội danh bị áp dụng hình phạt tử hình; tăng cường áp dụng biện pháp chuyển đổi từ hình phạt tử hình sang hình phạt tù, nhất là các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm sở hữu trình Bộ Chính trị.

Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị, các cơ quan liên quan đã rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự liên quan đến hình phạt tử hình và thi hành án tử hình, trình Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ chín, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác giải quyết hồ sơ án tử hình trong nhiều năm qua.

5. Về lĩnh vực quốc phòng-an ninh

Trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, xung đột vũ trang xảy ra ở nhiều nơi, các vấn đề an ninh phi truyền thống, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao diễn biến đặc biệt phức tạp, ảnh hưởng đến môi trường hòa bình, ổn định và phát triển của đất nước, Chủ tịch nước, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, đã thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, góp phần củng cố tiềm lực quốc phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Chủ tịch nước đã phối hợp chặt chẽ với các thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh xây dựng, ban hành Quy chế hoạt động, Chương trình nhiệm vụ trọng tâm của Hội đồng nhiệm kỳ 2021-2026; chủ trì 6 Phiên họp của Hội đồng, thảo luận về 16 nội dung, chủ đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược tác động đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Việt Nam; tham gia đóng góp ý kiến vào các quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước nhằm xử lý kịp thời các thách thức phát sinh, giữ vững ổn định đất nước; hoạt động của Hội đồng Quốc phòng và An ninh thực hiện theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và Quy chế hoạt động của Hội đồng.

Trong nhiệm kỳ 2021-2026, Chủ tịch nước thực hiện nhiều chuyến thăm, kiểm tra tình hình huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu tại một số quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, nhất là một số đơn vị, địa bàn trọng yếu, các đơn vị ở biên giới, hải đảo, các khu kinh tế - quốc phòng trọng điểm; thăm và động viên cán bộ, chiến sĩ các đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đã lập nhiều chiến công, thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, an ninh.

Thực hiện ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, căn cứ quy định của pháp luật, Chủ tịch nước đã ký quyết định thăng quân hàm, cấp bậc hàm cấp tướng đối với sĩ quan Quân đội nhân dân và sĩ quan Công an nhân dân; tước cấp bậc hàm cấp tướng đối với 1 sĩ quan theo thẩm quyền.

Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Chủ tịch nước đã quyết định cử mới, cử luân phiên thay thế, kéo dài thời gian công tác đối với 92 lượt sĩ quan Quân đội, 23 lượt sĩ quan Công an, 5 lượt Bệnh viện dã chiến cấp 2 và 4 lượt Đội công binh tham gia thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại địa bàn và tại trụ sở Liên hợp quốc. Qua đó, góp phần khẳng định Việt Nam là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, đóng góp thiết thực vào việc giải quyết các vấn đề an ninh, bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới.

6. Về công tác xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, có nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, Chủ tịch nước luôn quan tâm chăm lo củng cố, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế; chỉ đạo thực hiện hiệu quả Quy chế phối hợp công tác giữa Chủ tịch nước và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; thường xuyên trao đổi, xác định những nội dung phối hợp thiết thực; hằng nằm đều có tổng kết, rút kinh nghiệm để hoàn thiện tốt hơn cơ chế phối hợp này. Chủ tịch nước mời đại diện lãnh đạo Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tham dự nhiều hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng; đồng thời dành thời gian tham dự nhiều hoạt động, sự kiện do MTTQ Việt Nam tổ chức; tham gia đóng góp ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả triển khai các chủ trương, chính sách đại đoàn kết của Đảng, Nhà nước.

Chủ tịch nước thường xuyên quan tâm, thăm hỏi, động viên các tầng lớp nhân dân; gặp gỡ, gửi thư biểu dương kịp thời các tấm gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, các đoàn đại biểu người có công, công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, tài năng trẻ, nhà khoa học, tấm gương tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... (Phụ lục 6).

Trong nhiệm kỳ 2021-2026, Chủ tịch nước đã gửi Thiếp mừng thọ tới 54.013 người thọ từ 100 tuổi trở lên, thể hiện đạo lý “Kính lão, trọng thọ” tốt đẹp của dân tộc ta; quyết định tặng quà cho gần 15 triệu lượt người có công với cách mạng, với tổng kinh phí hơn 4.900 tỷ đồng nhân dịp 27-7, Tết Nguyên đán và các dịp kỷ niệm sự kiện trọng đại của đất nước. Hằng năm, Chủ tịch nước đều có thư Trung thu gửi các cháu thiếu nhi; thư Khai giảng năm học mới gửi ngành Giáo dục. Mỗi dịp Tết đến Xuân về, Chủ tịch nước thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài; chủ trì các hoạt động đón, tiếp kiều bào về quê hương đón Tết, thể hiện tình cảm sâu sắc với cộng đồng người Việt ở xa Tổ quốc, từ đó cổ vũ toàn dân phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chủ tịch nước thường xuyên quan tâm, thúc đẩy công tác an sinh xã hội, tích cực kêu gọi, huy động các nguồn lực xã hội đầu tư, hỗ trợ các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, đồng bào còn nhiều khó khăn. Trên cương vị Chủ tịch danh dự Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Chủ tịch nước đã quan tâm chỉ đạo đổi mới công tác chữ thập đỏ, tham gia các chương trình, hoạt động nhân đạo của Hội, dự Lễ phát động Tháng nhân đạo hằng năm, góp phần lan tỏa những giá trị tốt đẹp, xây dựng cộng đồng đoàn kết, giàu lòng nhân ái, tiến bộ, văn minh.

Trong những thời điểm khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, Chủ tịch nước đã kịp thời chia sẻ, đồng hành cùng người dân, trực tiếp đến thăm, hỗ trợ người dân ở nhiều địa phương bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, dịch bệnh. Khi đại dịch Covid-19 bùng phát nghiêm trọng, Chủ tịch nước đã đến thăm, kiểm tra công tác phòng, chống dịch tại nhiều địa phương, đơn vị; động viên cán bộ, chiến sĩ, các lực lượng trên tuyến đầu chống dịch; vận động nguồn lực hỗ trợ kịp thời cho đồng bào vùng dịch. Trước hậu quả nghiêm trọng do bão Yagi năm 2024 gây ra tại các tỉnh miền Bắc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã có thư thăm hỏi, động viên và trực tiếp đến thăm, chia sẻ với nhân dân, lực lượng vũ trang các địa phương chịu nhiều thiệt hại do bão gây ra; kêu gọi sự chung tay của toàn xã hội trong công tác khắc phục hậu quả để người dân sớm ổn định cuộc sống và phục hồi sản xuất với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chủ tịch nước đã nhận hơn 40.000 đơn, thư của công dân liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó phần lớn là đơn khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp và hành chính. Chủ tịch nước đã chỉ đạo Văn phòng Chủ tịch nước nghiên cứu, có biện pháp xử lý, chuyển cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết và trả lời công dân theo quy định của pháp luật, nhất là đối với những vụ việc nổi cộm, bức xúc, dư luận xã hội quan tâm, những vụ án, vụ việc có dấu hiệu oan sai, khiếu kiện phức tạp, kéo dài.

III. Về nhiệm vụ và quyền hạn trong hoạt động đối ngoại

Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, Chủ tịch nước đã triển khai công tác đối ngoại một cách chủ động, toàn diện, linh hoạt và hiệu quả, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ 2021 - 2026, Chủ tịch nước đã đi công tác tại 33 quốc gia, trong đó dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Nhà nước ta đi thăm 20 quốc gia, dự 11 hội nghị, diễn đàn quốc tế lớn như: Đại hội đồng Liên hợp quốc tại New York, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương APEC được tổ chức luân phiên tại các nước thành viên... Chủ tịch nước đón tiếp, hội đàm với 32 đoàn nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo các nước thăm Việt Nam; tiếp nhiều đoàn khách quốc tế đến chào xã giao; nhận Quốc thư của 142 Đại sứ nước ngoài tại Việt Nam; bổ nhiệm 74 Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền của Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt, Chủ tịch nước đã có các chuyến thăm và làm việc đến các nước đối tác quan trọng của ta như Lào, Campuchia, Trung Quốc, Cuba, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc (Phụ lục 7).

Bên cạnh hoạt động ngoại giao nhà nước, Chủ tịch nước luôn chú trọng thúc đẩy, phát huy đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân; gắn kết chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; thúc đẩy hợp tác kinh tế, phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; dành thời gian gặp gỡ, thăm hỏi, động viên kiều bào, tìm hiểu tình hình đời sống, học tập, lao động, sản xuất của cộng đồng người Việt trong các chuyến công tác nước ngoài; chủ trì Chương trình “Xuân Quê hương” hằng năm, gặp gỡ kiều bào về quê hương đón Tết cổ truyền dân tộc, tăng cường gắn kết cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với Tổ quốc.

Chủ tịch nước cũng đã trao tặng nhiều huân, huy chương, phần thưởng cao quý của Nhà nước Việt Nam để ghi nhận, tri ân những đóng góp của các cá nhân, tổ chức quốc tế có nhiều cống hiến trong việc củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia, đối tác và tổ chức quốc tế.

Trên cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch nước đã cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước triển khai hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật, có ý nghĩa chiến lược, tạo cục diện đối ngoại mới thuận lợi. Đối ngoại song phương đã góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ thực chất với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống; nâng cấp, nâng tầm quan hệ với nhiều đối tác chủ chốt. Nhiều dấu mốc quan trọng đã được xác lập, mở ra giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc gia. Trong nhiệm kỳ, Việt Nam đã thiết lập mới quan hệ ngoại giao với 4 nước (nâng số nước có quan hệ ngoại giao lên 194), nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện với 10 nước (nâng tổng số Đối tác Chiến lược toàn diện lên 13 quốc gia). Đối ngoại đa phương được nâng tầm, chuyển từ tích cực tham gia sang chủ động đóng góp tại nhiều cơ chế hợp tác khu vực và quốc tế; tham gia hiệu quả lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, thể hiện rõ vai trò của Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Những kết quả đó đã góp phần nâng cao uy tín, vị thế, hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, tạo lập môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực để phát triển đất nước.

IV. Về hoạt động của Phó chủ tịch nước

Phó chủ tịch nước đã thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời gian 2 lần giữ Quyền Chủ tịch nước. Theo phân công, ủy quyền của Chủ tịch nước và theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, Phó chủ tịch nước đã nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trên các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, góp phần quan trọng vào kết quả công tác nhiệm kỳ của Chủ tịch nước. Phó chủ tịch nước đã giúp Chủ tịch nước trong việc bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đổi mới công tác thi đua khen thưởng; kịp thời khen thưởng, động viên các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Phó chủ tịch nước đã có nhiều đóng góp quan trọng và nổi bật trong lĩnh vực đối ngoại; thường xuyên quan tâm thăm hỏi, động viên các tầng lớp nhân dân, lực lượng vũ trang; chăm lo thúc đẩy phát triển các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, an sinh xã hội, chăm lo người có công, người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người yếu thế, góp phần xây dựng xã hội nhân ái, đoàn kết và tiến bộ.

Phần thứ hai

ĐÁNH GIÁ CHUNG, NGUYÊN NHÂN, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI

I. Đánh giá chung:

1. Ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm:

Trên cương vị là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân và là đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch nước đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và theo phân công của Đảng. Chủ tịch nước đã cùng tập thể các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhất là các chủ trương, chính sách lớn, mang tính cách mạng, có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà nước trong 2 năm cuối của nhiệm kỳ về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân; thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, đổi mới công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật.

Chủ tịch nước đã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn với tinh thần trách nhiệm cao, hoàn thành khối lượng công việc lớn trên các mặt công tác, trong đó nổi bật là: Đã chủ trì chỉ đạo xây dựng và thông qua một số đề án lớn theo phân công của Bộ Chính trị; quan tâm thực hiện công tác an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là trong những lúc khó khăn, thiên tai, dịch bệnh; quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giải quyết dứt điểm hồ sơ án tử hình; thực hiện công tác đặc xá với quy mô lớn, đúng quy định của pháp luật, thể hiện rõ truyền thống khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta; triển khai hoạt động của Hội đồng Quốc phòng và An ninh theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và Quy chế hoạt động của Hội đồng; mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cấp quan hệ với nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, Chủ tịch nước đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất lượng các mặt công tác, xây dựng Đảng bộ, cơ quan Văn phòng Chủ tịch nước trong sạch, vững mạnh toàn diện; đầu tư sửa chữa, xây mới trụ sở cơ quan Chủ tịch nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Kết quả công tác nhiệm kỳ của Chủ tịch nước đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại và khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng tầm quan hệ đối ngoại, mở ra cục diện mới chưa từng có cho phát triển đất nước.

Đạt được kết quả trên là do Chủ tịch nước luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư; sự hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, địa phương, nhân dân và cử tri cả nước.

Cùng với đó, Chủ tịch nước đã quán triệt và triển khai nghiêm túc, quyết liệt, kịp thời, đồng bộ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn được giao với tinh thần trách nhiệm cao nhất trước Đảng, Nhà nước và nhân dân, dốc tâm sức, trí lực phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân. Văn phòng Chủ tịch nước đã có nhiều đổi mới trong tổ chức và hoạt động; đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo được quan tâm kiện toàn; tăng cường phối hợp công tác với các ban, bộ, ngành, địa phương, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác nghiên cứu, tham mưu, phục vụ hoạt động đối nội, đối ngoại của Chủ tịch nước.

2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế:

Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, với trọng trách được Đảng, Quốc hội và nhân dân giao phó, Chủ tịch nước có trách nhiệm trước những hạn chế, tồn tại của đất nước trong nhiệm kỳ. Hoạt động của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương có lúc còn gián đoạn, không thường xuyên, liên tục. Nguyên nhân là trong nhiệm kỳ có nhiều thay đổi về nhân sự Chủ tịch nước nên có thời gian chưa kịp thời kiện toàn nhân sự Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương.

II. Bài học kinh nghiệm:

Từ những kết quả đã đạt được cùng những hạn chế và nguyên nhân trong nhiệm kỳ vừa qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng; quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và phân công của Đảng; quyết liệt, sát sao trong lãnh đạo, chỉ đạo với tư duy mới, cách làm mới, phù hợp với tình hình thực tiễn.

Hai là, không ngừng tăng cường quan hệ phối hợp công tác chặt chẽ, hiệu quả giữa Chủ tịch nước với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương để thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước và vai trò điều hòa, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước.

Ba là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trọng dân, gần dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân và cử tri để phản ánh với các cơ quan chức năng có chủ trương, giải pháp phù hợp, hiệu quả. Tiếp tục động viên các tầng lớp Nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết, niềm tự hào và tự tôn dân tộc, khát vọng vươn lên, tạo đồng thuận trong xã hội thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Bốn là, dự báo, nhận diện, đánh giá đúng tình hình; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại, chính sách quốc phòng - an ninh theo đúng tinh thần các Nghị quyết của Đảng đã đề ra, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc phù hợp với luật pháp quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Năm là, xây dựng và giữ gìn hình ảnh người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại thực sự là biểu tượng cho tinh thần và sức mạnh của khối đại đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng; góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

III. Đề xuất phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới:

Cục diện thế giới dự báo tiếp tục chuyển biến nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình hợp tác vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều thách thức mới, có tính chất phức tạp hơn. Đất nước ta bên cạnh những thời cơ, thuận lợi phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có mặt còn gay gắt hơn so với giai đoạn trước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy thành quả của 40 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chung sức, đồng lòng triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của Đảng với quyết tâm, nỗ lực cao nhất, phấn đấu hoàn thành thắng lợi 2 mục tiêu 100 năm (đến năm 2030 - kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước ta có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao).

Với vị trí là người đứng đầu Nhà nước, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với Chủ tịch nước trong nhiệm kỳ tới rất vinh dự và nặng nề. Trên cơ sở kết quả hoạt động cùng những bài học kinh nghiệm trong nhiệm kỳ vừa qua, trong thời gian tới, Chủ tịch nước sẽ tiếp tục nỗ lực hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao, trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

Một là, cùng các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo tập trung xây dựng các văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng bảo đảm ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ triển khai, dễ thực hiện; thể hiện một cách sâu sắc và toàn diện tư duy đổi mới, đột phá của Đảng, làm cơ sở vững chắc định hướng cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới; triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của Đảng, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các Nghị quyết của Quốc hội khóa XVI. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch nước.

Hai là, tiếp tục phối hợp, chỉ đạo các cơ quan chức năng triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước; đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tiếp tục thực hiện hiệu quả thiết chế Chủ tịch nước theo tinh thần Nghị quyết 27-NQ/TW.

Ba là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; củng cố và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; nâng tầm và phát huy vai trò đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân trong tình hình mới; thực hiện có hiệu quả phương châm “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, góp phần quan trọng và tạo động lực phát triển bút phá của đất nước.

Bốn là, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng Quốc phòng và An ninh; tiếp tục xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; tăng cường chỉ đạo công tác nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình, kịp thời tham mưu chiến lược với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách phù hợp nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Năm là, quan tâm chăm lo củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo tinh thần Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 26-12-2024 của Bộ Chính trị, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và thực chất để nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng. Tăng cường tiếp xúc, gặp gỡ, động viên các tầng lớp nhân dân, tích cực nắm tình hình cơ sở, phát huy vai trò, đóng góp của các lực lượng xã hội, các tổ chức tôn giáo, cộng đồng dân tộc, nhân sĩ trí thức, kiều bào ta ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, chỉ đạo Văn phòng Chủ tịch nước tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa 4 Văn phòng Trung ương và Văn phòng Tổng Bí thư, các ban, bộ, ngành, địa phương; đổi mới mạnh mẽ phương thức, lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, hiện đại, thực hiện hiệu quả công tác chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo; nâng cao chất lượng toàn diện các mặt công tác, đáp ứng tốt yêu cầu tham mưu, phục vụ Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật trong tình hình mới.

Chủ tịch nước trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ, phối hợp có hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, địa phương và đồng bào, đồng chí, cử tri trong cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài để hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/toan-van-bao-cao-cong-tac-nhiem-ky-2021-2026-cua-chu-tich-nuoc-886156