Tôn trọng nhân tài - Giá trị đặc sắc của văn hóa chính trị Việt Nam
Hiện nay, văn hóa chính trị có mặt trong mọi thành tố, mọi hoạt động chính trị. Văn hóa chính trị là sức sống bên trong của đời sống chính trị. Cốt lõi của văn hóa là con người, trong đó tôn trọng nhân tài là giá trị đặc sắc của văn hóa chính trị Việt Nam. Để vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, cần có sự tiến hành đồng bộ các giải pháp tôn trọng và thu hút nhân tài vào trong hệ thống chính trị.

Ảnh minh họa Internet
1. Nhận thức chung về văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một khái niệm kép, nó được cấu thành từ hai khái niệm “văn hóa” và “chính trị”. Nhưng văn hóa chính trị không phải là sự cộng gộp giản đơn hai lĩnh vực này, mà đó là văn hóa đứng ở trong chính trị hay chính trị có tính văn hóa. Nó là sự thẩm thấu của văn hóa vào chính trị, là chính trị có tính văn hóa.
Trong Mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943), lần đầu tiên Hồ Chí Minh có nêu ra một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc (ăn mực), ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn” [1, t.3, tr.458]. Như vậy, văn hóa đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn.
Khái niệm “văn hóa”, theo nghĩa hẹp của nó liên quan tới đời sống tinh thần, lĩnh vực tinh thần của con người. Tinh thần nhân văn là tinh thần cốt lõi của văn hóa tinh thần.
Đối với chính trị có nhiều định nghĩa về chính trị, song khả dĩ có thể vạch ra dấu hiệu nội hàm cơ bản của nó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, dân tộc, các lực lượng xã hội nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Chính trị là lĩnh vực hoạt động phổ biến, quan trọng của xã hội, nó có sức mạnh quyết định chiều hướng và bản chất vận động và phát triển của xã hội. Hoạt động chính trị xoay quanh vấn đề giành quyền lực, giữ quyền lực và sử dụng quyền lực để thực thi các mục tiêu chính trị của giai cấp, của dân tộc, của quốc gia.
Chính trị không chỉ là việc giành và giữ quyền lực, vấn đề quan trọng nhất của chính trị là thực thi quyền lực để đạt tới mục tiêu chính trị. Điều đó nói lên rằng, chính trị là hoạt động tổng hợp và có quá trình; nó diễn ra từ việc lựa chọn mục tiêu chính trị, đến việc vạch ra đường lối, nội dung chính trị, sắp xếp, bố trí và tổ chức lực lượng thực hiện; liên quan mật thiết đến trình độ, năng lực thực hiện chính trị.
Từ bản chất của văn hóa và bản chất của chính trị như trên, ta thấy, mỗi nền chính trị là một thành tựu của văn hóa, đồng thời là một phương diện của văn hóa.
Văn hóa chính trị là một loại hình văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ giá trị, phẩm chất, năng lực, trình độ và phương thức hoạt động chính trị, được hình thành trên cơ sở một nền chính trị với thể chế, hệ thống và thiết chế đúng đắn, khoa học, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, phù hợp với tiến bộ xã hội.
Là một loại hình văn hóa, văn hóa chính trị mang tất cả những yếu tố của văn hóa: Toàn bộ giá trị vật chất - tinh thần của đời sống chính trị, do hoạt động chính trị tạo ra; là tri thức, năng lực, trình độ hoạt động của chủ thể chính trị, do quá trình hoạt động chính trị tạo ra. Văn hóa chính trị chứa đựng các phẩm chất nhân đạo, nhân văn, vươn tới sự phát triển và sự tiến hộ. Nếu văn hóa là linh hồn của xã hội, của thời đại, thì văn hóa chính trị là linh hồn của nền chính trị.
Các giá trị ưu tiên làm nên đặc trưng văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng của từng quốc gia. Việt Nam cũng chia sẻ hệ thống các giá trị chung của văn hóa thế giới, và ở Việt Nam, một số giá trị dưới đây được cho là đặc trưng của văn hóa chính trị quốc gia.
Văn hóa chính trị Việt Nam có những đặc trưng như sau: Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước, ý thức dân tộc. Thứ hai, tính cộng đồng. Thứ ba, tôn trọng nhân tài. Thứ tư, tinh thần đoàn kết.
2. Hiền tài là nguyên khí quốc gia
Hiền tài là tinh hoa của dân tộc. Có thể nói, một dân tộc tự hào về nền văn hiến của dân tộc mình thì dân tộc đó phải trọng dụng hiền tài. Từ xa xưa, nhân tài luôn gắn với vận mệnh của quốc gia, của dân tộc Việt Nam. Thân Nhân Trung, một danh nhân thời Lê đã viết: "Hiền tài là nguyên khí của đất nước, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu và xuống thấp". Với ý thức tôn vinh và tôn trọng hiền tài, các vương triều trong xã hội phong kiến Việt Nam đều có những chính sách đối xử với tài năng khá mềm dẻo, linh hoạt, có tính hiệu quả cao. Trong bốn hạng người của xã hội là "sĩ, nông, công, thương" thì sĩ được coi trọng hơn cả. Nhà nước phong kiến Việt Nam cứ vài năm lại tổ chức các kỳ thi để chọn ra những người tài. Những người tài giỏi, bất kể là già hay trẻ, xuất thân từ tầng lớp giàu sang thay thấp hèn, đều được lựa chọn để bổ vào các vị trí quyền lực. Hầu hết quan chức trong bộ máy nhà nước đều là người có học, trong đó có nhiều người còn rất trẻ. Người có tài thi đỗ cao được trao quyền chức cao, người phấn đấu trưởng thành trong thực nghiệp thì được cất nhắc vào các chức vụ cao, phẩm hàm lớn.
Chính sách trọng dụng và đãi ngộ nhân tài của các triều đại phong kiến được thể hiện thông qua các hình thức vinh danh. Những người đỗ tiến sỹ được triều đình tôn vinh bằng nhiều hình thức như: Xướng danh trước Ngọ Môn, ghi tên vào bảng vàng, khắc tên vào bia đá (chẳng hạn như 82 văn bia tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám là minh chứng điển hình cho việc trân trọng nhân tài), đãi yến ở vườn Thượng uyển, vinh quy bái tổ. Khi những người này về địa phương, nhà nước lệnh cho địa phương phải đón rước linh đình, nghênh tiếp long trọng. Họ được cắt đất công làm lộc điền, hương hỏa….
Trong dân gian, những người tài đức cao cả, công danh sự nghiệp lớn lao thường được tôn vinh như những bậc khai khoa, mở lối cho sự học của dân, khai nguyên cho dòng họ. Tôn trọng hiền tài, tôn trọng việc học hành, khoa cử trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Các giá trị văn hóa trên không chỉ là các giá trị truyền thống. Trong thời kỳ hiện nay, chủ nghĩa yêu nước, tính cộng đồng, tôn trọng hiền tài và trọng lão vẫn trở thành những chuẩn mực trong ứng xử của người Việt Nam, vẫn có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống chính trị Việt Nam.
3. Tôn trọng nhân tài giá trị đặc sắc trong văn hóa ứng chính trị Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thống nhất tư tưởng và hành động trong sự trọng thị, tôn trọng nhân tài. Cách ứng xử của Hồ Chí Minh với đội ngũ trí thức, các nhà hoạt động xã hội có uy tín không chỉ là một sách lược của cách mạng trong một thời điểm mà nó mang ý nghĩa lâu dài, nhân văn, có xuất phát điểm từ chỗ đất nước là của chung, phải từ lợi ích của đất nước mà lựa chọn những người xứng đáng làm việc cho nước, cho dân chứ không vì lợi ích của một tổ chức, đảng phái nào. Người nói với các đồng chí trong Đảng của mình “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thành thật đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước” [2, t.5, tr.315].
Các thế hệ trí thức, các nhân tài trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã “đi theo Hồ Chí Minh, nghe theo Hồ Chí Minh” dấn thân vào con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; trong khi đó, họ chưa hiểu gì về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Họ tin yêu và làm theo những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh làm bởi cuộc đời và con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn đã làm họ tin tưởng. Những tư tưởng về con người và văn hóa của Hồ Chí Minh là giải quyết những vấn đề thực tiễn, là “soi đường cho quốc dân đi” thực sự, đã tạo ra những thay đổi lớn, tích cực trong ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng, đặc biệt ở sự tin yêu người đứng đầu, sự đồng lòng với những chủ trương lớn, kích thích tình yêu và khát vọng cống hiến.
Đối với các nhân tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cốt cách, nhân cách ở họ. Người mời các cụ vốn là quan lại cũ như Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Đặng Văn Hướng... và giao cho họ những trọng trách lớn trong bộ máy Quốc hội, Chính phủ. Rất nhiều các trí thức ngoài Đảng được giao chức Bộ trưởng trong Chính phủ kháng chiến, nhiều tướng lĩnh người ngoài Đảng được giao cầm quân ở những địa bàn trọng yếu và họ đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình với tinh thần tận hiến, chịu ơn tri ngộ của Hồ Chí Minh. Với họ, Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc này đồng nghĩa với thể chế mới, nhân dân, dân tộc. Vì cảm phục Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cụ Huỳnh Thúc Kháng nhận lời làm Bộ trưởng Nội vụ. Cũng chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước khi người sang đàm phán với Chính phủ Pháp vì người nhận thấy cái bất biến ở cụ Huỳnh sẽ làm điểm tựa để cụ ứng phó với cái vạn biến của nước nhà trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Đây là một ví dụ rõ nhất về văn hóa chính trị, văn hóa trọng dụng nhân tài, tôn trọng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt trân quý, tôn trọng nhân tài trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Trong thời hiện đại, trọng dụng và thu hút nhân tài là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Có nhiều chính sách đã được ban hành trong thời gian qua để hiện thực hóa các chủ trương nói trên. Không chỉ ở cấp Trung ương, nhiều địa phương trên cả nước cũng ban hành các chính sách “trải thảm đỏ” thu hút nhân tài vào làm việc trong bộ máy của hệ thống chính trị. Để đảm bảo chính sách trọng dụng nhân tài được thực thi một cách hiệu quả, trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng đã xác định cần phải: “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng người tài và cơ chế đánh giá cán bộ” [3, t.2, tr.244]. Chính vì vậy, trong Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc; là lực lượng có vai trò quan trọng trong liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; có trách nhiệm tiên phong, tạo ra sản phẩm tinh thần, vật chất chất lượng cao cho xã hội, là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [4].
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, trong đó “Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” ban hành kèm theo Quyết định số 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là: Năm 2025 thu hút nhân tài vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước khoảng 10% so với tổng số tuyển dụng mới; năm 2026 ít nhất 2% lãnh đạo, quản lý cấp bộ là “nhân tài”.
Từ năm 2026 đến 2030, 100% các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bảo đảm khung tỷ lệ tối thiểu từ 2% đến 5% trở lên là nhân tài trong cơ cấu lãnh đạo, quản lý; từ 10% -15% trở lên trong cơ quan chuyên môn nghiệp vụ.
Đến năm 2030, định hướng đến năm 2050: duy trì tỷ lệ nhân tài thu hút vào làm việc ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước không dưới 20% so với tổng số các trường hợp tuyển dụng mới hằng năm, phấn đâú100% nhân tài (được công nhận) tiếp tục ở lại làm việc sau 5 năm được thu hút và trọng dụng làm việc tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước; tỷ lệ nhân tài được đào tạo, bồi dưỡng trong lĩnh vực khoa học - công nghệ đạt 30% vào năm 2025; đạt 60% vào năm 2030 để tiến tới đạt 100% vào năm 2050; chỉ số cạnh tranh nhân tài toàn cầu (GTCI) từ năm 2031 trở đi luôn được cải thiện, phấn đấu tăng dần so với năm trước; các chỉ số về “thu hút nhân tài”, “giữ chân nhân tài” xếp hạng cao trong số các quốc gia có thu nhập trung bình cao [5]. Tôn trọng và “thu hút nhân tài” cần phải là ưu tiên quan trọng hàng đầu trong xây dựng và hoàn thiện văn hóa chính trị Việt Nam phục vụ đắc lực cho Kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã tin tưởng vào “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”[6]. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện văn hóa chính trị Việt Nam, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp thu hút nhân tài như sau:
Một là, đổi mới tư duy, nhận thức về vấn đề dân số, lao động và việc làm; về giáo dục, đào tạo, văn hóa và chăm sóc sức khỏe người dân; về xây dựng xã hội và quản lý phát triển xã hội, lấy con người làm trung tâm; về tăng trưởng hài hòa và bền vững nền kinh tế trong tình hình mới. Nhận thức này không chỉ cần được đổi mới trong hệ thống chính trị, mà cần được chuyển tải sâu sắc tới cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân. Trong đó, đổi mới mạnh mẽ tư duy, nâng cao, thống nhất nhận thức trong các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức, tôn trọng nhân tài đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, giáo dục và đào tạo luôn là chính sách hàng đầu, là nền tảng chấn hưng và phát triển của quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Do đó, phải có một triết lý và mục tiêu giáo dục, đào tạo rõ ràng. Tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài trong các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học; xác định lĩnh vực, hướng nghiên cứu trọng điểm, ưu tiên gắn với yêu cầu đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Ba là, Nhà nước đang có chủ trương đầu tư vào các dự án lớn với số vốn lớn, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, công nghệ mới, như Sân bay Long Thành, đường sắt cao tốc, tái khởi động Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, chương trình chuyển đổi số quốc gia… Đây là cơ hội quý báu, không chỉ để chúng ta đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các dự án này, mà còn là cơ sở để thay đổi cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động, đào tạo lao động có chất lượng cao cho cả nền kinh tế. Cần tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia các dự án này với mức độ cao nhất ở các cấu phần, kể cả cấu phần cần đầu tư nghiên cứu, sáng tạo, tiếp cận với công nghệ mới trong nước chưa có, để khuyến khích doanh nghiệp trong nước và lực lượng lao động trong nước đổi mới sáng tạo. Tránh tình trạng chỉ cung cấp sản phẩm, thiết bị, vật liệu mà doanh nghiệp đã sản xuất được, trong khi công nghệ mới, sản phẩm mới, đều phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Bốn là, “kịp thời phát hiện nhân tài trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài; có cơ chế, chính sách ưu tiên, đột phá trong thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài, nhất là chính sách tuyển dụng, tiền lương, tạo môi trường làm việc, tập trung vào các nhà khoa học giỏi, có trình độ chuyên môn cao, có khả năng chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng, các chuyên gia đầu ngành, trí thức có uy tín, có thành tựu cống hiến trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, các cơ quan tham mưu chiến lược. Quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ cho trí thức trẻ, nữ, công tác tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trong lực lượng vũ trang, đồng bào dân tộc thiểu số”[7].
Năm là, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp cần có những kế hoạch, hoạt động cụ thể thiết thực, khả thi và hiệu quả cao trong chính sách đãi ngộ và trọng dụng nhân tài. Do vậy, “ưu tiên bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực xã hội, nguồn lực nước ngoài đầu tư phát triển hạ tầng khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo, các quỹ đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tạo môi trường thuận lợi cho trí thức làm việc, nghiên cứu, sáng tạo, cống hiến” [8].
Tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 458.
[2]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 315.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tập II, tr.244.
[4]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
[5]. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” ban hành kèm theo Quyết định số 899/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 31/7/2023.
[6]. Tổng Bí thư Tô Lâm, Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie-nam, truy cập ngày 01/11/2024.
[7]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
[8]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
(1) Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng - (2) Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Quốc phòng.