Tổng giám đốc HSBC chỉ ra rào cản cần tháo gỡ để tham gia sân chơi tài chính toàn cầu
Theo vị chuyên gia này, tiếp cận được thị trường quốc tế, cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp đều có thể huy động vốn từ nhiều khu vực, bằng nhiều loại ngoại tệ và từ nhiều đối tượng nhà đầu tư, giúp nền tảng vốn ổn định và vững vàng hơn trước các cú sốc kinh tế trong nước.
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào kỷ nguyên tăng trưởng mới, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và sự phát triển của kinh tế tư nhân được coi là những yếu tố tăng tốc quan trọng. Tất nhiên, những động lực tăng trưởng này đòi hỏi nguồn vốn rất dồi dào.
Nhiều năm qua, ngân hàng vẫn là nguồn cung cấp vốn chủ đạo cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giờ đây khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới, quy mô nhu cầu vốn sẽ sớm gia tăng đến ngưỡng cần huy động thêm từ nhiều nguồn đa dạng hơn.
Lợi thế chiến lược
Quay trở lại năm 2014, Việt Nam đã thành công trong việc tái tiếp cận thị trường vốn quốc tế khi phát hành trái phiếu Chính phủ quốc tế kỳ hạn 10 năm, huy động hơn 1 tỷ USD. Theo ông Tim Evans - Tổng giám đốc HSBC Việt Nam, so với thời điểm cách đây một thập kỷ, câu chuyện của Việt Nam hiện nay đã mang sức truyền cảm hứng mạnh mẽ hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy, khi đã có hoài bão, Việt Nam không chỉ thực hiện được mà còn triển khai rất nhanh.

Ông Tim Evans, Tổng Giám đốc Ngân hàng HSBC tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026.
Quả thật, thị trường vốn quốc tế có thể đóng vai trò như một nguồn vốn với chi phí vay thấp hơn, nguồn vốn và số lượng các nhà đầu tư đa dạng, với các kênh và công cụ tài chính khác nhau. Tiếp cận được thị trường quốc tế, cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp đều có thể huy động vốn từ nhiều khu vực, bằng nhiều loại ngoại tệ và từ nhiều đối tượng nhà đầu tư, giúp nền tảng vốn ổn định và vững vàng hơn trước các cú sốc kinh tế trong nước.
Vay vốn từ bên cho vay nước ngoài hoặc thị trường vốn nước ngoài cũng mang lại lợi thế bên cạnh chi phí vốn rất quan trọng khi cần nguồn vốn quy mô cho dự án lớn, mua bán công ty hoặc mở rộng hoạt động có thể vượt quá khả năng cho vay của ngân hàng trong nước.
Thứ nhất, các khoản vay nước ngoài linh hoạt hơn về mục đích sử dụng vốn, cho phép một công ty lớn dùng vốn vay vào nhiều mục đích như vốn lưu động, mua lại công ty khác, cấp vốn cho công ty con, đồng thời cơ cấu lại nhiều khoản nợ trong hoặc ngoài nước…
Thứ hai, các bên cho vay nước ngoài nhìn chung không quá đòi hỏi hồ sơ phức tạp giúp toàn bộ quy trình vay xuyên suốt hơn. Với những giao dịch tài trợ quy mô lớn, phức tạp và cấp thiết, thủ tục đơn giản hơn đồng nghĩa tốc độ tiếp cận vốn nhanh hơn.
Vốn ngoại, tăng trưởng nội
Dẫn chứng cho điều này, ông Tim Evans cho biết năm 2022, ngay sau khi Việt Nam vượt qua đại dịch Covid-19, Tập đoàn Masan đã huy động thành công hơn 600 triệu USD vốn đồng tài trợ. Đáng chú ý, dù nhu cầu vay chỉ khoảng 375 triệu USD, tổng giá trị vốn huy động thực tế đã vượt lên hơn 600 triệu USD, qua đó cho thấy sức hấp dẫn và câu chuyện truyền cảm hứng mạnh mẽ của Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.
Năm 2025, cùng với Tập đoàn bảo hiểm tín dụng thuộc Chính phủ Ý (SACE), HSBC đã thu xếp được hai khoản vay tổng trị giá 139 triệu USD do SACE bảo lãnh cho GELEX Group và THACO AGRI, hai đơn vị đầu ngành của Việt Nam. Những giao dịch đó không chỉ giúp doanh nghiệp đa dạng nguồn vốn với giá cạnh tranh mà còn mở rộng khả năng tiếp cận của họ đến các định chế tài chính hàng đầu thế giới.
Những ví dụ này cho thấy các tập đoàn trong nước đang dần bước chân vào thị trường vốn toàn cầu để đa dạng nền tảng vốn và giảm sự phụ thuộc vào tín dụng trong nước cũng như thị trường trái phiếu nội địa. Hướng đi này đặc biệt cần thiết để đạt được các thỏa thuận tài trợ vốn quy mô lớn, kỳ hạn dài và cơ cấu phức tạp, bao gồm các công cụ tài chính như khoản vay và trái phiếu xanh/xã hội.

Trên 20% khách hàng của HSBC Việt Nam có đủ điều kiện và sẵn sàng để tiếp cận những thị trường vốn như vậy. Họ là những tập đoàn lớn, doanh nghiệp tầm trung ngày càng linh hoạt và những tên tuổi trong lĩnh vực kinh tế mới có tình hình tài chính vững mạnh, quản trị minh bạch và có khả năng mở rộng quy mô hoạt động. Số lượng này đang tăng lên nhanh chóng trong bối cảnh doanh nghiệp Việt học theo tiêu chuẩn toàn cầu, được thúc đẩy bởi sự bùng nổ của xuất khẩu và các dòng FDI vào Việt Nam.
Những rào cản cần tháo gỡ
Các công ty Việt Nam có nhiều cơ hội để tham gia vào sân chơi tài chính toàn cầu nhưng vẫn còn đó những rào cản cần tháo gỡ.
Thứ nhất, các nhà đầu tư và ngân hàng quốc tế phải dựa vào các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như S&P, Moody’s, Fitch… để đánh giá mức độ tín nhiệm của bên vay. Chúng ta cần mức xếp hạng tín nhiệm tốt để tham gia thị trường cổ phiếu và trái phiếu toàn cầu mà không phải trả mức lãi suất cao hơn (phần bù rủi ro).
Thứ hai, chuẩn mực kế toán và báo cáo của Việt Nam (VAS) khác biệt đáng kể so với chuẩn mực quốc tế (IFRS). Các nhà đầu tư toàn cầu có thể gặp khó khăn trong việc so sánh thông tin tài chính của một doanh nghiệp Việt dùng VAS với một công ty ở nước khác dùng IFRS do khác biệt cơ bản trong nguyên tắc kế toán. Ngoài ra, họ cũng đòi hỏi thông tin chi tiết, đúng chuẩn và kịp thời để đưa ra quyết định đầu tư. Thông tin công bố không đầy đủ, kém thường xuyên hoặc không theo chuẩn mực quốc tế sẽ tạo ra sự không chắc chắn, thiếu tin tưởng, khiến nhà đầu tư chần chừ cam kết vốn.
Thứ ba, các nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là nhà đầu tư tổ chức, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn và thông lệ quản trị doanh nghiệp bên cạnh những con số tài chính. Đó là các yếu tố ESG, việc liên hệ làm việc với nhà đầu tư thường xuyên và chuyên nghiệp… Nhiều công ty Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm trong giao tiếp và xử lý kỳ vọng của những nhà đầu tư toàn cầu sành sỏi dẫn đến đánh mất cơ hội thu hút vốn ngoại.
Hiện tại, Việt Nam đang đầu tư mạnh vào các dự án quy mô lớn, dài hạn trong lĩnh vực năng lượng và hạ tầng vốn cần hàng tỷ đô-la vượt xa mức có thể huy động từ lợi nhuận kinh doanh hay vay trong nước. Trong bối cảnh hạn mức tín dụng giảm dần theo lộ trình, chúng tôi kỳ vọng sẽ chứng kiến thêm doanh nghiệp Việt từ cả hai khu vực công tư vươn ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn vốn họ cần. Đây chính là tín hiệu cho thấy sự trưởng thành và cởi mở của bối cảnh tài chính doanh nghiệp Việt Nam
Làm gì để thắng lợi trên trường quốc tế?
Doanh nghiệp Việt cần ưu tiên nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, học hỏi các thông lệ quốc tế tốt nhất về tính độc lập của ban quản trị, quyền của cổ đông và kiểm soát nội bộ. Việc này giúp tạo dựng lòng tin nơi nhà đầu tư và cho thấy cam kết quản lý có trách nhiệm.

Vị CEO HSBC cho rằng, doanh nghiệp Việt cần ưu tiên nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, học hỏi các thông lệ quốc tế tốt nhất về tính độc lập của ban quản trị, quyền của cổ đông và kiểm soát nội bộ.
Họ cũng có thể cải thiện báo cáo tài chính và ESG bằng cách cung cấp báo cáo tài chính kịp thời, chính xác và toàn diện theo tiêu chuẩn IFRS. Thêm nữa, lồng ghép các chỉ số và báo cáo ESG vào báo cáo tài chính, báo cáo bền vững mang lại cái nhìn tổng thể về kết quả kinh doanh và tác động vốn là một yêu cầu ngày càng cần thiết đối với vốn quốc tế.
Hiện tại, việc tuân thủ ESG đang ngày càng trở thành yêu cầu bắt buộc với phần nhiều khoản vốn tài chính quốc tế. Xây dựng một tư duy bền vững, dài hạn tích hợp các nguyên tắc ESG vào chiến lược cốt lõi của doanh nghiệp giúp tăng khả năng cạnh tranh và tự động thu hút các nguồn vốn ngoại phù hợp. Doanh nghiệp trong nước có thể bắt đầu với một định hướng rõ ràng: xác định ưu tiên chiến lược, đưa chiến lược bám sát với tiêu chuẩn quốc tế, đặt ra mục tiêu có thể định lượng và đảm bảo giám sát quản lý ở cấp cao.
Bên cạnh đó, đánh giá khách quan của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như Moody’s, S&P và Fitch cũng đặc biệt quan trọng với những doanh nghiệp Việt muốn huy động vốn từ thị trường quốc tế. Xếp hạng khách quan của các tổ chức xếp hạng được thế giới công nhận là đánh giá của bên thứ ba đúng chuẩn được cả thế giới công nhận và tin tưởng, giúp các nhà đầu tư quốc tế nắm rõ hơn về tình hình tài chính, quản lý và rủi ro hoạt động của một công ty Việt Nam tương tự nhà đầu tư trong nước hoặc bản thân chính công ty đó.
Thêm nữa, theo vị Tổng giám đốc HSBC, để trở nên hấp dẫn hơn trên trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt cần thúc đẩy năng lực kinh doanh căn bản. Họ có thể đạt được bằng cách ứng dụng số hóa, đặc biệt đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó giúp cải thiện hiệu quả hoạt động động, tăng cường khả năng giám sát chuỗi cung ứng và nâng cao sức bền nói chung cho doanh nghiệp vốn là ưu tiên chính trong thương mại quốc tế.
Công ty trong nước cũng nên chú trọng vào sản phẩm, dịch vụ có giá trị công thêm cao hơn thông qua đầu tư vào công nghệ, R&D và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, họ cần xây dựng được chuỗi cung ứng trong nước mạnh mẽ hơn, có sức cạnh tranh cao hơn cũng như tạo dựng liên kết giữa các doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, với nhóm doanh nghiệp FDI. Điều này giúp công ty trong nước đáp ứng được yêu cầu khắt khe của mạng lưới sản xuất toàn cầu về chất lượng và giao nhận.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, doanh nghiệp Việt nên từng bước cơ cấu lại tài chính để trở nên mạnh mẽ, ổn định và lợi nhuận hơn trong mắt cộng đồng tài chính toàn cầu. Cải thiện cơ cấu vốn giúp họ tìm được điểm cân bằng tối ưu tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu nhằm đạt được chất lượng rủi ro tốt hơn và đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe được thế giới công nhận của các nhà đầu tư quốc tế cũng như tổ chức xếp hạng tín nhiệm.
Một hướng đi chiến lược khác là xây dựng sẵn nhiều dự án phù hợp với nhiều hình thức vay như tín dụng xuất khẩu, tài trợ dự án, trái phiếu hoặc khoản vay cho doanh nghiệp… Có trong tay nhiều dự án phù hợp và sẵn sàng cho thấy sự hiểu biết và giảm rủi ro đối với các ngân hàng thương mại nước ngoài, tổ chức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và nhà đầu tư tổ chức. Các công ty Việt Nam có thể cải thiện điểm tín nhiệm cũng như mức độ tuân thủ kỷ luật tài chính trước các nhà đầu tư toàn cầu bằng cách bắt đầu bằng những giao dịch vay nhỏ, trong khả năng rồi dần dần từng bước tăng quy mô lên.












