TỔNG THUẬT: HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT 66-NQ/TW VÀ NGHỊ QUYẾT 68-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

Sáng 18/5, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân.

Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức diễn ra vào sáng ngày 18/5.

Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tiếp từ Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội và kết hợp trực tuyến tới 37.000 điểm cầu ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, cơ quan, đơn vị trên cả nước, với hơn 1,5 triệu đại biểu tham dự Hội nghị tại các điểm cầu.

Hội nghị được truyền hình trực tiếp trên các kênh, sóng của Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam và được các cơ quan truyền thông tiếp sóng.

Tổng Bí thư Tô Lâm dự hội nghị. Ảnh VGP

Tổng Bí thư Tô Lâm dự hội nghị. Ảnh VGP

Tổng Bí thư Tô Lâm dự Hội nghị. Cùng dự Hội nghị có Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn.

Cùng dự còn có các nguyên Chủ tịch nước: đồng chí Nguyễn Minh Triết (tại điểm cầu Bình Dương), đồng chí Trương Tấn Sang (tại điểm cầu Long An); nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (tại điểm cầu Thành phố Hồ Chí Minh); nguyên Chủ tịch Quốc hội: đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân; Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú.

Cùng dự Hội nghị có các Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương Đảng; các đảng ủy trực thuộc Trung ương; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương. Dự tại các điểm cầu tỉnh, thành ủy có các Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng; Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban Thường vụ các tỉnh, thành ủy; lãnh đạo chủ chốt cấp ủy, chính quyền các cấp.

Trước khi tham dự Hội nghị, tại điểm cầu chính Nhà Quốc hội, các đại biểu sẽ thăm quan triển lãm "Những thành tựu trong xây dựng và thực thi pháp luật" và "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân".

Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các Ban, bộ, ngành dự hội nghị tại điểm cầu chính Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội.

Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch nước Lương Cường, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các Ban, bộ, ngành dự hội nghị tại điểm cầu chính Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội.

Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Hội trường Diên Hồng. Ảnh VGP/Nhật Bắc

Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Hội trường Diên Hồng. Ảnh VGP/Nhật Bắc

Theo chương trình, tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày Chuyên đề "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW".

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày chuyên đề "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW".

Tổng Bí thư Tô Lâm sẽ có phát biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị.

Cuối cùng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Nguyễn Trọng Nghĩa có phát biểu tiếp thu ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và hướng dẫn việc quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ trình bày Chuyên đề "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW". Ảnh VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ trình bày Chuyên đề "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW". Ảnh VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng: Thương trường là chiến trường, cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho doanh nhân và phát động toàn dân thi đua làm giàu

Trình bày Chuyên đề về nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển KTTN và Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, Thủ tướng trước hết nhấn mạnh, Nghị quyết 68 được xây dựng, ban hành rất nhanh dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm.

Sau khi Nghị quyết 68 được ban hành ngày 4/5, trong vòng 13 ngày, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành 3 nghị quyết để thể chế hóa và triển khai. Điều này cho thấy sự chuẩn bị kịp thời, nhanh chóng nhưng cũng rất chu đáo, chất lượng, với tinh thần làm việc rất khẩn trương, nghiêm túc, dưới sự chỉ đạo, quan tâm của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư.

Thủ tướng tập trung trình bày 5 nhóm nội dung chủ yếu: (1) Khái quát thực trạng khu vực KTTN; (2) Các nội dung cốt lõi của Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị; (3) Các nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ; (4) Các nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội; (5) Tổ chức thực hiện.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội dự hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội dự hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Kinh tế tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng

Khái quát về thực trạng khu vực KTTN, Thủ tướng dành nhiều thời gian phân tích chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển KTTN; kết quả đạt được; tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; yêu cầu về chính sách đột phá phát triển KTTN.

Thủ tướng cho biết trong gần 40 năm qua, từ khi Đổi mới đến nay, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với KTTN đã được thể hiện rất rõ tại các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, các Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển KTTN.

KTTN ngày càng có vai trò quan trọng, thể hiện rõ qua Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng.

Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) khẳng định sự tồn tại của KTTN gắn với nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó nêu rõ "sử dụng kinh tế tư bản tư nhân trong một số ngành, nghề".

Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) cho phép KTTN "phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm".

Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) thừa nhận vai trò KTTN "kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước".

Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) nhìn nhận cởi mở hơn về KTTN: "khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm".

Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) xác định KTTN có vai trò quan trọng và yêu cầu: xóa bỏ mọi rào cản, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.

Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) xác định rõ vai trò, vị trí của KTTN và yêu cầu "hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế".

Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) và Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021) khẳng định và nhấn mạnh "hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế".

Thủ tướng cho biết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển về KTTN, nổi bật là Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX "Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN"; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về "Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN"; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về "Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới".

Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm, định hướng của Đảng, tạo khung pháp lý thống nhất, thuận lợi cho KTTN phát triển, bảo đảm quyền tự do kinh doanh bình đẳng.

Từ năm 2017 đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành gần 60 luật, hơn 40 nghị quyết, pháp lệnh, 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; Chính phủ ban hành khoảng 1.000 nghị định có liên quan đến KTTN.

Giai đoạn 2021 đến nay, khu vực KTTN gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và người lao động . Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp rất kịp thời và tương đối toàn diện với các chính sách về giảm, giãn, hoãn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, khoanh nợ, hoãn nợ…

Đồng thời, Chính phủ đã ban hành nhiều đề án, chương trình, kế hoạch liên quan đến phát triển KTTN trên các lĩnh vực (tiêu biểu như Đề án phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số; Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững; Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ...).

5 giai đoạn phát triển của kinh tế tư nhân

Về kết quả đạt được, Thủ tướng đánh giá quá trình phát triển của khu vực KTTN trong gần 40 năm qua có thể được khái quát thành 5 giai đoạn: (1) Giai đoạn 1986 - 1999: hình thành và được thừa nhận; (2) Giai đoạn 2000 - 2005: Khởi sắc với Luật Doanh nghiệp; (3) Giai đoạn 2006 - 2015: Hội nhập và mở rộng; (4) Giai đoạn 2016 - 2024: Khởi nghiệp bùng nổ và là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế; (5) Giai đoạn từ năm 2025 trở đi: Định hướng phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Đánh giá khái quát về kết quả và đóng góp của KTTN trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển, Thủ tướng nêu rõ: KTTN liên tục phát triển, khẳng định vị thế là một động lực quan trọng của nền kinh tế; là kênh huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển; góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách Nhà nước; tạo việc làm, sinh kế, thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; thúc đẩy hội nhập quốc tế; đóng góp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước.

Một số kết quả nổi bật của KTTN cụ thể, Thủ tướng cho biết số lượng doanh nghiệp thành lập tăng mạnh, từ khoảng 5.000 doanh nghiệp năm 1990 lên 50.000 doanh nghiệp năm 2000, và 200.000 năm 2005 (gấp 40 lần sau 15 năm); đến nay có gần 1 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế.

KTTN liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, là khu vực có đóng góp lớn nhất trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng khoảng 50% GDP. Từ năm 2016 đến nay, tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN đạt khoảng 6-8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế.

Khu vực KTTN đóng góp rất quan trọng tạo việc làm, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn. Giai đoạn 2017-2024, khu vực KTTN sử dụng bình quân hơn 43,5 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động có việc làm trong nền kinh tế.

Tỷ trọng vốn đầu tư của KTTN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, từ 44% năm 2010 lên 56% năm 2024; đóng góp hơn 30% tổng thu NSNN, khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.

KTTN là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tăng nhanh, từ 1.500 startup năm 2015 lên khoảng 4.000 startup vào năm 2024. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang hình thành, phát triển, vươn tầm khu vực, quốc tế.

Đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển lớn mạnh, tinh thần kinh doanh, tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên ngày càng mạnh mẽ; đặc biệt, ngay cả trong những thời kỳ khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, các doanh nghiệp, doanh nhân vẫn nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện trách nhiệm xã hội với cộng đồng.

Bên cạnh đó, mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng, khu vực KTTN vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Mục tiêu phát triển KTTN đề ra tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017 (đạt 1,5 triệu doanh nghiệp và đóng góp 55% GDP vào năm 2025) vẫn chưa đạt được.

Gần 98% doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quy mô nhỏ và vừa (DNNVV), siêu nhỏ (gần 70% quy mô siêu nhỏ), sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế; năng suất lao động thấp hơn khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước; tỷ lệ DNTN tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp (chỉ khoảng 21%).

Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân đạt khoảng 10 doanh nghiệp/1.000 dân vào năm 2024, thấp hơn so với các nước trong khu vực. Tốc độ doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng, phản ánh tình trạng khó khăn do biến động bất lợi của tình hình quốc tế, trong nước.

Việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, nhất là về tài chính, tín dụng, đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đối với DNNVV (chiếm gần 98% số lượng doanh nghiệp nhưng tiếp cận chưa đến 20% tổng dư nợ tín dụng). Các DNTN chiếm chưa đến 10% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán.

Kết nối giữa các DNTN, giữa DNTN với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI còn hạn chế (chỉ có 18% doanh nghiệp có kết nối chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó doanh nghiệp lớn chiếm đến 62%, còn lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa).

Một bộ phận DNTN chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh còn hạn chế (cạnh tranh thiếu lành mạnh, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm hợp đồng…). Một số DNTN còn tham gia vào buôn lậu, trốn thuế, thao túng thị trường, găm hàng, đội giá…

Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, Thủ tướng chỉ rõ những bất cập mang tính căn cơ: Nhận thức về KTTN còn hạn chế, quan điểm chưa cởi mở; công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn bất cập; tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách về KTTN chưa thực sự kịp thời, hiệu quả; một bộ phận DNTN chưa thực sự chủ động, linh hoạt, tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên.

Phân tích nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, Thủ tướng cho rằng Việt Nam vẫn là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô kinh tế còn khiêm tốn, sức chống chịu còn hạn chế. Thể chế, pháp luật vẫn là "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Thủ tục hành chính còn vướng mắc; chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2023 xếp hạng 70/190 quốc gia, thấp hơn một số nước trong khu vực.

Một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, thiếu tính khả thi chưa được bãi bỏ, sửa đổi kịp thời; thủ tục đầu tư, kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn phức tạp, thiếu minh bạch; một số chính sách hỗ trợ DNTN khó thực hiện (như hỗ trợ đầu tư nghiên cứu phát triển, ưu đãi thuế, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp…).

Năng lực nội tại của KTTN còn hạn chế, nhất là về vốn, quản trị, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, áp dụng các mô hình kinh doanh mới như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.

Tư duy, nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức còn mang nặng tính "xin - cho"; còn tình trạng thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiếp tay cho tiêu cực, lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí.

Khái quát ngắn gọn, Thủ tướng cho rằng phát triển KTTN còn nhiều khó khăn do nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính, từ nhận thức tới định hướng, tổ chức thực hiện, quản lý nhà nước, vấn đề tổng kết, tôn vinh KTTN… tuy đã có rất nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, sự phát triển của khu vực KTTT và chưa tương xứng với mong muốn của chúng ta.

Các doanh nghiệp trao đổi với Thủ tướng tại Hội nghị - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Các doanh nghiệp trao đổi với Thủ tướng tại Hội nghị - Ảnh VGP/Nhật Bắc

Xóa bỏ rào cản, tư duy 'không quản được thì cấm'

Thủ tướng cho biết, từ thực tiễn phát triển KTTN nước ta những năm qua và kinh nghiệm quốc tế, có thể đúc kết một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN là một động lực quan trọng nhất và là trụ cột chính của nền kinh tế quốc gia, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và hành động mạnh mẽ hỗ trợ KTTN phát triển.

Thứ hai, nâng cao vai trò kiến tạo, dẫn dắt của Nhà nước, tăng cường năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, xây dựng thể chế và tổ chức thực hiện, có cơ chế, chính sách đột phá, xóa bỏ mọi rào cản, tư duy "không quản được thì cấm" để phát triển KTTN, đẩy mạnh hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân.

Thứ ba, bảo đảm KTTN được đối xử công bằng, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; có cơ chế, chính sách, giải pháp vượt trội, đột phá để khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là cho nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa, giảm chi phí thủ tục hành chính.

Thứ tư, ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, tiên phong dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI; hỗ trợ DNTN vươn ra thị trường quốc tế, xây dựng thương hiệu quốc tế.

Thứ năm, tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính sách đãi ngộ vượt trội để thu hút nhân tài, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao, ngành nghề mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KTTN.

Phân tích yêu cầu về chính sách đột phá phát triển KTTN, Thủ tướng chỉ rõ các yếu tố khách quan từ tình hình thế giới và yêu cầu chủ quan. Trong bối cảnh mới nhiều khó khăn, thách thức, những cũng có cơ hội mới, thời cơ mới cho phát triển đất nước, để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH đã đề ra, nhất là hai mục tiêu chiến lược 100 năm, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy, nhận thức, tầm nhìn; quyết liệt hành động mạnh mẽ hơn, khơi thông mọi động lực cho phát triển đất nước; đặc biệt là sự cấp thiết phải xóa bỏ mọi định kiến, phát huy vai trò, tạo sự đột phá phát triển KTTN để thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước trong tình hình mới.

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã khẩn trương thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển KTTN do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; thường xuyên xin ý kiến và nhận sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là ý kiến chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư; huy động sự tham gia ý kiến tích cực của các cấp, các ngành, các địa phương, các chuyên gia, hiệp hội, doanh nghiệp.

Trong một thời gian ngắn (2 tháng) đã trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW; trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN; ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 về Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội.

Cùng với đó, chúng ta cũng đang tiến hành cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, tạo không gian phát triển mới, cắt giảm đầu mối, khâu trung gian, tăng cường cho cơ sở, cắt giảm thủ tục, chuyển mạnh từ trạng thái thụ động sang chủ động phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất

Về nội dung chính của Nghị quyết 68, Thủ tướng nêu rõ các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và việc tổ chức thực hiện.

Thủ tướng cho biết, Nghị quyết 68-NQ/TW đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá về phát triển KTTN, trong đó nổi bật là:

(1) KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Thực tiễn đổi mới ở nước ta và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đây là lực lượng tiên phong thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, hội nhập quốc tế.

(2) Phát triển KTTN nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan, trong đó KTTN là phương thức quan trọng nhất để giải phóng sức sản xuất, kích hoạt, huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là trong nhân dân.

(3) Xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về KTTN; coi doanh nhân là những chiến sỹ trên mặt trận kinh tế. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự bảo đảm KTTN bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực.

(4) Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, làm giàu hợp pháp, đóng góp cho đất nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo nền tảng vững chắc thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và phát huy vai trò của KTTN tham gia các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược của quốc gia, vươn tầm khu vực, thế giới.

(5) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh. Qua đó, góp phần thúc đẩy, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến của đội ngũ doanh nhân cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Cho rằng cần phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu trên phạm vi cả nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Thủ tướng nhấn mạnh "thương trường là chiến trường", cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho các chiến sỹ trên mặt trận kinh tế cống hiến vì đất nước.

Để đạt được các mục tiêu đề ra tới năm 2030, 2045, Nghị quyết đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách mạnh mẽ, bảo đảm bám sát 3 đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng) và trong tổng thể 04 Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, gồm: (1) Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; (2) Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; (3) Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật; (4) Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển KTTN.

Thủ tướng cho biết, nội dung trọng tâm của 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất đối với phát triển KTTN hiện nay. Đó là: (1) Đổi mới tư duy, nhận thức và hành động; (2) Cải cách, nâng cao chất lượng thể chế; (3) Tăng cường tiếp cận các nguồn lực; (4) Thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; (5) Tăng cường kết nối doanh nghiệp; (6) Phát triển DNTN lớn; (7) Hỗ trợ DNTN nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh; (8) Phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân.

Nhóm thứ nhất, đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển KTTN.

Thủ tướng nêu rõ, đây là yêu cầu trước hết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề cho phát triển KTTN; yêu cầu các cơ quan truyền thông, báo chí chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền (cổ vũ, lan tỏa những mô hình tốt, cách làm hay, khích lệ tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân; nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai sự thật, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân).

Nhóm 2, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của KTTN và bảo đảm thực thi hợp đồng của KTTN.

Nhóm nhiệm vụ, giải pháp này nhằm giải quyết triệt để, hiệu quả vấn đề thể chế, không để thể chế tiếp tục là "điểm nghẽn của điểm nghẽn", mà là động lực thúc đẩy mạnh mẽ KTTN phát triển. Tinh thần đặt ra là phải đổi mới tư duy xây dựng và thực thi pháp luật; xóa bỏ các rào cản hành chính, cơ chế "xin - cho", tư duy "không quản được thì cấm"; khắc phục triệt để tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu nhất quá giữa giữa các bộ, ngành, địa phương; chủ động kiến tạo một môi trường thể chế thuận lợi nhất; tập trung giải quyết về bản chất những vấn đề cốt lõi nhất về bảo đảm quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng, thực thi hợp đồng; phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự để củng cố niềm tin của doanh nghiệp, doanh nhân, thúc đẩy phát triển KTTN.

Về cải cách, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ các rào cản tiếp cận thị trường; tạo mọi thuận lợi trong giải quyết thủ tục hành chính. Chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Không phân biệt đối xử giữa KTTN với các thành phần kinh tế khác trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực; hoàn thiện thể chế, có cơ chế, chính sách đặc biệt thúc đẩy phát triển KTTN.

Về phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự, Nghị quyết nêu rõ: Bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại.

Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo.

Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh nghiệp. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá trình điều tra, xét xử các vụ án. Bảo đảm giá trị niêm phong, kê biên, tạm giữ, phong tỏa tương ứng với dự kiến hậu quả thiệt hại trong vụ án.

Phân biệt rõ tài sản hình thành hợp pháp với tài sản có được từ hành vi vi phạm pháp luật, tài sản khác liên quan đến vụ án; giảm thiểu tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Nhóm 3 là tạo thuận lợi cho KTTN tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao. Theo Thủ tướng, đây cũng là điểm mới của Nghị quyết, trong đó đưa ra các giải pháp cụ thể đối với những vấn đề đang vướng mắc.

Theo đó, tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh cho KTTN; đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho KTTN; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho KTTN.

Nhóm 4 là thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong KTTN, với các cơ chế, chính sách đột phá.

Đơn cử, tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển bằng 200% chi phí thực tế; trích tối đa 20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; được sử dụng quỹ để tự triển khai hoặc đặt hàng nghiên cứu phát triển bên ngoài theo cơ chế khoán sản phẩm.

Nhóm 5 là tăng cường kết nối giữa các DNTN, DNTN với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Nhóm 6 là hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn KTTN tầm cỡ khu vực và toàn cầu. Đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân thông qua các mô hình "lãnh đạo công - quản trị tư", "đầu tư công - quản lý tư", "đầu tư tư - sử dụng công".

Xây dựng, triển khai chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh; Chương trình vươn ra thị trường quốc tế (Go Global)…

Nhóm 7 là hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh.

Trong đó, thực hiện hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, nhất là cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh là thanh niên, phụ nữ, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và các mô hình kinh doanh bao trùm, tạo tác động xã hội.

Nhóm 8 là đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước.

Theo đó, tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các doanh nhân, doanh nghiệp điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng.

Thiết lập mối quan hệ giữa các cấp ủy đảng, chính quyền với DNTN chặt chẽ, thực chất, chia sẻ, cởi mở, chân thành; phát huy vai trò góp ý, phản biện chính sách của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp. Xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phát triển Đảng trong khu vực DNTN, doanh nhân.

Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cụ thể cho Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ, các Ban Đảng ở Trung ương, Đảng ủy các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương trong triển khai thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW.

Về Kế hoạch hành động của Chính phủ, Thủ tướng cho biết, Kế hoạch được ban hành nhằm cụ thể hóa, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Phương châm đặt ra là phải tập trung thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết định, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm. Phân công nhiệm vụ phải bảo đảm cụ thể, rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện với tinh thần "6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả".

Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo, các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Nghị quyết số 68-NQ/TW, Chương trình hành động của Chính phủ đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ với 117 nhiệm vụ cụ thể, giao cho từng bộ, ngành, các địa phương chủ trì hoặc phối hợp triển khai thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, với thời hạn, kết quả cụ thể.

Thủ tướng cũng cho biết, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 198/2025/ QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển KTTN với một số nội dung chủ yếu: Về cải thiện môi trường kinh doanh; về hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh; về hỗ trợ tài chính, tín dụng và mua sắm công; về hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực; về hỗ trợ hình thành doanh nghiệp vừa và lớn, doanh nghiệp tiên phong; về điều khoản thi hành.

Ngay trong ngày 17/5/2025, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 139/NQ-CP về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể với thời hạn cụ thể cho các bộ, cơ quan, địa phương để tập trung triển khai thực hiện, phát huy hiệu quả ngay từ thời điểm ban hành.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn báo cáo chuyên đề về Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn báo cáo chuyên đề về Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Pháp luật phải xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”

Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66 và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị đang diễn ra, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã báo cáo chuyên đề về Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Trong báo cáo chuyên đề, Chủ tịch Quốc hội đã tập trung làm rõ một số vấn đề về tầm quan trọng, ý nghĩa của việc ban hành Nghị quyết 66; những mặt được, những mặt tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật thời gian qua; những nội dung trọng tâm, cốt lõi Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, bao gồm quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp.

Chủ tịch Quốc hội cũng quán triệt các nội dung trọng tâm của Nghị quyết 197, ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật để kịp thời thể chế hóa ngay các quyết sách của Nghị quyết 66 và những nội dung cơ bản trong kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66 của Đảng ủy Quốc hội và Đảng ủy Chính phủ.

Ngày 30/4/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị đã ký ban hành Nghị quyết số 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật đã được thành lập ngay sau khi Nghị quyết 66 ban hành do Tổng Bí thư làm Trưởng ban; Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội làm Phó trưởng Ban; các thành viên khác là Trưởng một số Ban Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Bộ, ngành, cơ quan; thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết.

Quang cảnh hội nghị.

Quang cảnh hội nghị.

Ngày 17/5/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 197 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật để kịp thời thể chế hóa Nghị quyết 66.

Chủ tịch Quốc hội khẳng định, việc ban hành Nghị quyết 66 là đòi hỏi khách quan của tiến trình đổi mới, nhằm tạo đột phá nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của đất nước.

Điều đó thể hiện qua các yếu tố: Một là, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với những đòi hỏi cao hơn về thể chế pháp luật để thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 theo Nghị quyết Đại hội lần thứ 13 của Đảng. Điều này đòi hỏi một hệ thống pháp luật hiện đại, đồng bộ và khả thi.

Hai là, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang diễn ra mạnh mẽ, đặt ra những vấn đề mới, phức tạp về pháp lý cần được nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời.

Ba là, hội nhập quốc tế sâu rộng, nhất là việc Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đòi hỏi hệ thống pháp luật trong nước phải tương thích với các cam kết quốc tế và thông lệ quốc tế.

Bốn là, công tác xây dựng và thi hành pháp luật những năm qua còn không ít hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển.

Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ, những năm qua, công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tạo nền tảng pháp lý cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Trong đó, tư duy, nhận thức lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện.

Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật đã được nâng lên. Quy trình xây dựng pháp luật ngày càng chặt chẽ, khoa học; công tác thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được chú trọng.

Công tác tổ chức thi hành pháp luật đã có những chuyển biến tích cực. Sau mỗi Kỳ họp Quốc hội, Chính phủ chủ trì, phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Hội nghị triển khai các luật, nghị quyết Quốc hội thông qua tại kỳ họp để nhanh chóng đưa luật, nghị quyết vào cuộc sống.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn báo cáo chuyên đề về Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn báo cáo chuyên đề về Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW.

Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc thi hành pháp luật; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được chú trọng; việc theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm; công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật được tăng cường.

Theo Chủ tịch Quốc hội, công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Năm 2024, GDP của Việt Nam đã tăng 7,09%, đạt mức cao nhất trong khu vực, 15/15 chỉ tiêu kinh tế đạt và vượt - một phần nhờ vào việc ban hành kịp thời nhiều chính sách, pháp luật tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chủ tịch Quốc hội cũng chỉ rõ, công tác xây dựng và thi hành pháp luật vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế.

Đó là: một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ.

Theo báo cáo của Bộ Tư pháp và các cơ quan, tính đến ngày 31/8/2023, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 45 văn bản, còn 83 văn bản chưa ban hành (tỷ lệ nợ đọng là 24.13%). Năm 2024 đã có tiến bộ hơn, nhưng số lượng văn bản nợ vẫn chiếm 17.05%.

Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý, chưa chú trọng đúng mức đến thúc đẩy phát triển, tạo động lực đổi mới sáng tạo. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mang nặng tính mệnh lệnh hành chính, quy định chi tiết được làm gì, không được làm gì, thiếu linh hoạt, không theo kịp sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, thị trường và các mô hình kinh doanh mới.

Chất lượng xây dựng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá tác động chính sách, đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật còn mang tính hình thức, chưa thực chất; việc tham vấn ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

Các đại biểu dự hội nghị.

Các đại biểu dự hội nghị.

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, có tới 32% số văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong 5 năm gần đây đã phải sửa đổi, bổ sung trong vòng 2 năm sau khi có hiệu lực.

Tình trạng quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, không rõ ràng chưa được khắc phục triệt để, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, tính đến tháng 12/2024, vẫn còn 27 văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh chưa được ban hành đúng thời hạn, trong đó có những văn bản chậm ban hành trên 12 tháng.

Việc phân cấp, phân quyền trong nhiều lĩnh vực chưa đủ mạnh, triệt để, thiếu rõ ràng về trách nhiệm và thẩm quyền; thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.

Việc nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới còn chậm, chưa tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo.

Các đại biểu dự hội nghị.

Các đại biểu dự hội nghị.

Nhiều vấn đề mới phát sinh như thương mại điện tử xuyên biên giới, kinh tế chia sẻ, công nghệ tài chính, chuỗi khối, tiền điện tử... chưa được điều chỉnh kịp thời, làm hạn chế khả năng phát triển và cạnh tranh của nền kinh tế trong kỷ nguyên số.

Công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu. Việc theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật có chuyển biến nhưng chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn; thiếu cơ chế phản ứng chính sách kịp thời, có lúc, có nơi chưa nghiêm minh, hiệu quả thấp.

Theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp tại 63 tỉnh, thành phố, có tới 65% người dân và doanh nghiệp được hỏi cho rằng việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, làm giảm niềm tin vào pháp luật.

Luật pháp là lợi thế cạnh tranh của đất nước

Trước thực tế đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải quán triệt sâu sắc 5 quan điểm chỉ đạo đã được xác định tại Nghị quyết 66 gồm:

Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành pháp luật.

Phải xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước.

Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “hai con số”; nâng cao đời sống của Nhân dân, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Cần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng với thi hành pháp luật.

Xác định rõ đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển. Nhà nước bảo đảm và ưu tiên nguồn lực và có chế độ, chính sách đặc thù, vượt trội cho công tác nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và đội ngũ nhân lực trực tiếp, thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ này.

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Nghị quyết đặt ra mục tiêu trung hạn và dài hạn cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật, bám sát yêu cầu và mốc thời gian thực hiện 2 mục tiêu chiến lược 100 năm mà Đảng ta đã đề ra.

Cụ thể, đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi, cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Đồng thời, để bảo đảm thực hiện có lộ trình, bước đi, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, Nghị quyết xác định rõ mục tiêu cụ thể trước mắt và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI.

Nghị quyết xác định 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới. Trước hết, Nghị quyết khẳng định xây dựng và thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần được thực hiện dưới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng.

Một điểm nhấn quan trọng là đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật. Pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương của Đảng; xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước, ưu tiên bảo đảm quyền con người và quyền công dân.

Luật pháp được xác định là lợi thế cạnh tranh của đất nước, do đó Nghị quyết yêu cầu dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” – thay vào đó phải khuyến khích sáng tạo, khơi thông nguồn lực phát triển.

Các quy định pháp luật cần ổn định, đơn giản, dễ hiểu, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Công tác xây dựng pháp luật được yêu cầu phải rất chủ động trong nghiên cứu chiến lược và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, nhằm tăng tính dự báo, nâng cao chất lượng chính sách.

Nghị quyết 66 nhấn mạnh phải hoàn thiện quy trình lập pháp minh bạch, chuyên nghiệp và công khai ý kiến đóng góp, không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

Đặc biệt, đối với các luật chủ yếu phục vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết yêu cầu cắt giảm tối đa điều kiện kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ; bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dễ dàng nguồn vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao.

Nghị quyết 66 đặt ra yêu cầu công tác thi hành pháp luật phải đột phá. Pháp luật được thực thi công bằng, nghiêm minh, nhất quán và kịp thời, gắn chặt với quá trình xây dựng pháp luật. Nghị quyết yêu cầu phát huy tinh thần phục vụ nhân dân của công chức, bảo đảm quan điểm “người dân và doanh nghiệp được làm những gì luật không cấm”.

Thi hành pháp luật ưu tiên thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời chú trọng các lĩnh vực thiết yếu như an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, an ninh mạng.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và tổ chức xã hội được huy động tích cực tham gia giám sát thi hành pháp luật và phổ biến giáo dục pháp luật. Nghị quyết yêu cầu xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đa dạng hóa truyền thông chính sách (kể cả ứng dụng công nghệ số). Đồng thời, kiên quyết không “hình sự hóa” các quan hệ kinh tế, dân sự, không dùng biện pháp hành chính để giải quyết tranh chấp kinh tế, giữ vững tính công bằng và linh hoạt của luật pháp.

Tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật

Về các nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai thực hiện Nghị quyết 66 đối với Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, ngày 17/5/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 197 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật.

Nghị quyết 197 đã kịp thời thể chế hóa ngay các quyết sách của Nghị quyết 66, tháo gỡ ngay những vướng mắc, bất cập về cơ chế tài chính, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, chuyển đổi số trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

Nghị quyết 197 đã quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, chưa có tiền lệ, không chỉ là khoản chi 0,5% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm cho công tác xây dựng pháp luật, thành lập Quỹ Hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật mà cả cơ chế khoán chi, mức chi, chế độ, chính sách đặc biệt khuyến khích đối với đội ngũ cán bộ, công chức tại một số cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương trực tiếp, thường xuyên làm công tác tham mưu nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và một số hoạt động tổ chức thi hành pháp luật hỗ trợ trực tiếp cho xây dựng pháp luật.

Đồng thời, đảm bảo các cơ chế, chính sách đặc biệt được áp dụng đúng mục đích, đúng người, đúng việc, có trọng tâm, trọng điểm, xác định đúng, trúng và quy định bao quát đầy đủ các đối tượng trực tiếp, thường xuyên làm công tác tham mưu nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật.

Theo Chủ tịch Quốc hội, Nghị quyết 197 vừa có quy định chung, khái quát, mang tính nguyên tắc, vừa có một số quy định cụ thể để có thể thi hành ngay sau khi Nghị quyết được thông qua. Các nội dung ngân sách bảo đảm chi và biện pháp thực hiện nhằm triển khai thực hiện thuận lợi, đúng quy định, các cơ chế, chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật. Trong quá trình thực hiện, trường hợp cần thiết thì có thể điều chỉnh, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Chính phủ cũng sẽ có quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể; có cơ chế kiểm soát bảo đảm các yêu cầu về hiệu quả, công khai, minh bạch, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nhất là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.

Đặc biệt, về chính sách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật đã yêu cầu: tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật là nền tảng hạ tầng số dùng chung, thống nhất trong quản lý và lưu trữ toàn diện các nguồn dữ liệu; tích hợp, liên thông các hệ thống thông tin để có thể cập nhật, khai thác, chia sẻ phục vụ đồng thời nhiều mục đích cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ số, trong đó bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), trợ lý ảo đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa phục vụ các khâu của quy trình xây dựng pháp luật.

Khẩn trương cụ thể hóa, hướng dẫn triển khai Nghị quyết 197 của Quốc hội

Trên cơ sở Nghị quyết 66, Chủ tịch Quốc hội cho biết, ngày 16/5/2025, Đảng ủy Quốc hội đã ban hành kế hoạch hành động số 28. Ngày 17/5/2025, Đảng ủy Chính phủ có Nghị quyết số 140 ban hành Chương trình hành động, xác định toàn diện các nội dung, nhiệm vụ thực hiện.

Trong đó có một số nhiệm vụ trọng tâm như: thể chế hóa chủ trương của Đảng về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan để tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương khẩn trương cụ thể hóa, hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Sớm hoàn thành việc ban hành các luật và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật trong các lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Thực hiện đổi mới tư duy lập pháp, trong xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện các dự thảo luật trình Quốc hội biểu quyết thông qua, Đảng ủy Quốc hội phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan có liên quan chú trọng bảo đảm nguyên tắc:

Một số bộ luật, luật quy định về quyền con người, quyền công dân, tố tụng tư pháp thì cần cụ thể, về cơ bản các luật khác, nhất là luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.

Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, trong năm 2025, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện tổng kết việc thực hiện Định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, đánh giá kỹ kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế; đồng thời, bám sát văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, các nhiệm vụ trọng tâm, định hướng phát triển đất nước để xây dựng định hướng chương trình lập pháp cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI, làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình lập pháp hằng năm để các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và chính quyền địa phương chủ động triển khai các nhiệm vụ lập pháp.

Dứt khoát không để tình trạng “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”

Đối với cấp ủy đảng của các cơ quan, tổ chức khác, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, theo chức năng, nhiệm vụ cần triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Khẩn trương xây dựng kế hoạch và lãnh đạo tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 66. Theo đó, căn cứ vào các nội dung của Nghị quyết, các nội dung có liên quan trong Chương trình hành động của Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ để sớm ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của cơ quan mình; trong đó, lưu ý phải xác định đúng, đủ nhiệm vụ của từng cơ quan, gắn với thời hạn thực hiện cụ thể, kết quả đầu ra rõ ràng, đồng thời, có cơ chế theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện bảo đảm để những chủ trương, quyết sách trong Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống mang lại những kết quả cụ thể có thể kiểm đếm và người dân cảm nhận được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực. Dứt khoát không để tình trạng “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”.

Về bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật, cấp ủy các cơ quan cần lưu ý bảo đảm triển khai một số yêu cầu mới về trách nhiệm người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ, gắn với công tác đánh giá, khen thưởng, sử dụng cán bộ và chế tài, biện pháp xử lý đối với người không thực hiện đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

Tiếp tục thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật theo đúng yêu cầu của Nghị quyết số 66 và Quy định số 178 ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị.

Để đạt được các mục tiêu đột phá mà Nghị quyết 66 đề ra đòi hỏi mỗi cơ quan, tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới phương thức lãnh đạo và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp một cách chủ động, sáng tạo, thực chất.

Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ, nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề nhưng cũng hết sức vẻ vang. Mỗi cơ quan, mỗi cá nhân phải biến quyết tâm thành hành động cụ thể: đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, song song với việc thi hành nghiêm minh pháp luật và khuyến khích sáng tạo.

"Chúng ta tin tưởng rằng, với quyết tâm chính trị cao nhất, cùng sự hưởng ứng, vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng xã hội thượng tôn pháp luật, sẵn sàng đưa đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới", Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Tổng Bí thư Tô Lâm: Điểm đột phá chung của cả bốn nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”.

Tổng Bí thư Tô Lâm: Điểm đột phá chung của cả bốn nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”.

Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đến thời điểm hiện nay có thể gọi 4 Nghị quyết (Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới) là “Bộ tứ trụ cột” để giúp chúng ta cất cánh.

Tổng Bí thư kêu gọi toàn hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hãy chung tay, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để cùng nhau đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc Việt Nam.

Tổng Bí thư nêu rõ, nhìn về tương lai, chúng ta xác định rõ: muốn phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam không thể đi theo lối mòn cũ. Chúng ta phải dám nghĩ lớn, hành động lớn, thực hiện những cải cách lớn với quyết tâm chính trị cao nhất và nỗ lực bền bỉ nhất.

Bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Muốn đạt hiệu quả cao nhất phải triển khai tốt đồng thời các nghị quyết.

Bốn nghị quyết lớn của Bộ Chính trị đã cùng tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Mặc dù mỗi nghị quyết tập trung vào một lĩnh vực trọng yếu, chúng liên kết chặt chẽ, bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện.

Cả bốn nghị quyết đều thống nhất mục tiêu: Xây dựng nền tảng vững chắc để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Nghị quyết 66 yêu cầu hoàn thiện thể chế pháp luật minh bạch, hiện đại, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Nghị quyết 57 xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột tăng trưởng mới. Nghị quyết 59 mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế chủ động, tích cực. Nghị quyết 68 thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực trung tâm cho nền kinh tế.

Sự liên kết này không chỉ mang tính định hướng chung mà còn thể hiện rõ sự phụ thuộc lẫn nhau trong thực tiễn. Nếu thể chế không minh bạch (Nghị quyết 66), thì kinh tế tư nhân khó phát triển (Nghị quyết 68), khoa học công nghệ thiếu môi trường sáng tạo (Nghị quyết 57) và hội nhập quốc tế thiếu hiệu quả (Nghị quyết 59). Ngược lại, nếu đổi mới sáng tạo không đột phá, kinh tế tư nhân sẽ yếu, hội nhập quốc tế sẽ bị hạn chế. Nếu hội nhập không chủ động, bản thân thể chế và các động lực trong nước cũng khó cải cách toàn diện.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, điểm đột phá chung của cả bốn nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”. Đây là bước chuyển tư duy căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu thế toàn cầu trong kỷ nguyên số.

Tất cả các nghị quyết đều nhấn mạnh vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cùng sự tham gia thực chất của doanh nghiệp, người dân và giới trí thức.

Các trục triển khai như thi hành pháp luật, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển tư nhân và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, kiểm tra, giám sát thường xuyên và đánh giá hiệu quả.

Tổng Bí thư chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới (2025–2030) đó là: Hoàn thiện thể chế pháp luật hiện đại, đồng bộ, thúc đẩy phát triển. Trong 5 năm tới, triển khai toàn diện Nghị quyết 66, cải cách mạnh mẽ quy trình xây dựng, thi hành và đánh giá pháp luật.

Mục tiêu: xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập sâu rộng. Kiên quyết xóa bỏ "luật khung, luật ống", khắc phục pháp luật chồng chéo, đồng thời hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho đầu tư và phát triển.

Đột phá trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Giai đoạn 2025–2030 phải tạo đột phá mạnh mẽ thông qua triển khai quyết liệt các chương trình quốc gia về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, lan tỏa tới doanh nghiệp và địa phương.

Hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư R&D, thương mại hóa công nghệ; xây dựng hạ tầng dữ liệu và nền tảng số cho chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Đây là nền tảng kỹ thuật quyết định bứt phá năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tăng tốc hội nhập quốc tế toàn diện, chủ động, hiệu quả: Chủ động đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, tận dụng cơ hội từ chuỗi cung ứng toàn cầu và dòng vốn đầu tư quốc tế. Chuyển hóa cam kết hội nhập thành tăng trưởng thực tế, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư chất lượng cao.

Đồng thời, tham gia xây dựng và định hình luật chơi quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, an ninh mạng, qua đó khẳng định vị thế và bảo vệ lợi ích quốc gia.

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực chất, trở thành “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc gia: Tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về đất đai, tín dụng, công nghệ, thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp linh hoạt, năng động.

Xây dựng chiến lược phát triển các tập đoàn tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh khu vực, quốc tế, dẫn dắt chuỗi giá trị toàn cầu. Trọng tâm: bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, công khai, tạo động lực thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển nhanh, bền vững.

Tạo không gian phát triển mới cho đất nước

Tổng Bí thư nhấn mạnh, năm 2025 là năm bản lề mở ra kỷ nguyên mới, trong khi mục tiêu trở thành quốc gia phát triển chỉ còn hai thập niên phía trước. Nếu không bắt kịp nhịp độ cải cách, không tạo đột phá ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ lỡ mất cơ hội vàng và tụt lại trong cuộc đua toàn cầu.

Vì vậy, về những nhiệm vụ cấp bách trong năm 2025, Tổng Bí thư đề nghị cần triển khai các nhiệm vụ một cách nhanh chóng, bài bản, thực chất, lấy hiệu quả thực tế làm tiêu chí đánh giá; toàn hệ thống chính trị khẩn trương thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia thực hiện 4 nghị quyết, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình và phân công cụ thể. Đồng thời, lập bộ chỉ số theo dõi, đánh giá định kỳ.

Thứ hai, khẩn trương rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, triển khai sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định bất cập theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW...

Thứ ba, khởi động ngay các chương trình trọng điểm về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phê duyệt, triển khai các chương trình quốc gia; hình thành thêm các trung tâm đổi mới sáng tạo mới; xây dựng khung pháp lý cho mô hình sandbox.

Thứ tư, tập trung đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, chủ động chuẩn bị tham gia các hiệp định mới tận dụng cam kết hội nhập để chuyển hóa thành tăng trưởng thực tế…

Thứ năm, thực hiện đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, số hóa dịch vụ công, hỗ trợ vốn, công nghệ, chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng đề án phát triển tập đoàn tư nhân lớn.

Thứ sáu, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện các nghị quyết; thành lập các Ban chỉ đạo chuyên trách cấp trung ương và cấp tỉnh; bảo đảm cơ chế chỉ đạo thống nhất, kiểm tra, giám sát thường xuyên.

Thứ bảy, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để triển khai nghị quyết: đào tạo chuyên sâu về pháp luật hiện đại, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và quản trị doanh nghiệp; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ có tư duy đổi mới, năng lực số và khả năng thích ứng toàn cầu.

Thứ tám, đẩy mạnh truyền thông, tạo đồng thuận xã hội: xây dựng các chương trình truyền thông quốc gia về từng nghị quyết; tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân và giới trí thức, huy động trí tuệ xã hội cho quá trình triển khai.

Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới – Khát vọng – Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường

Tổng Bí thư khẳng định, hơn bao giờ bao giờ hết, hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương là một khối đoàn kết, thống nhất, quyết tâm, quyết liệt lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra, chuẩn bị thật tốt để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, phồn vinh và hạnh phúc.

Kể từ Hội nghị Trung ương X khóa XIII (9/2024) đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm việc ngày đêm tập trung giải quyết nhiều vấn đề cốt lõi, tháo gỡ những “điểm nghẽn”, tạo không gian phát triển mới cho đất nước.

Triển khai quyết liệt nội dung Nghị quyết 18 của Ban chấp hành Trung ương về “một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức của bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả”; xây dựng chính quyền địa phương hai cấp; sắp xếp lại đơn vị hành chính để “cất cánh”... những công việc nêu trên không chỉ được cán bộ, đảng viên nghiên túc triển khai mà điều quan trọng hơn là hầu hết nhân dân trong cả nước theo dõi, đồng tình, ủng hộ, coi đây thực sự là cuộc cách mạng của đất nước trong thời kỳ mới.

Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục đồng lòng, chung sức, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Vì “biết đồng sức, biết đồng lòng/ việc gì khó, làm cũng xong”, Tổng Bí thư yêu cầu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình; chủ động, sáng tạo, đoàn kết thi đua yêu nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân, làm cho nhân dân có đời sống thực sự ngày một tốt hơn. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam phải trở thành chiến sĩ tiên phong trên mặt trận phát triển đất nước.

Tổng Bí thư lưu ý, Lãnh đạo các cấp, từ Trung ương đến địa phương, phải gương mẫu, tiên phong trong đổi mới tư duy và hành động; dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia, thậm chí dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.

Các chương trình hành động phải được triển khai quyết liệt, bài bản, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo năng lực và kết quả công tác.

Tiếp tục kiến nghị, đề xuất để xây dựng những Nghị quyết mới theo phương châm “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” như Bác Hồ từng dạy.

Người dân và doanh nghiệp phải được xác định là trung tâm và chủ thể sáng tạo trong phát triển; cần bồi đắp mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp quốc gia, khơi dậy nguồn lực đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường hiện đại hóa, hội nhập.

Với truyền thống anh hùng, trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng vươn lên không ngừng của toàn dân tộc, Tổng Bí thư Tô Lâm tin tưởng, Việt Nam sẽ tiếp tục tiến bước vững chắc trên con đường phát triển nhanh và bền vững. Mỗi cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cá nhân cần xác định rõ trách nhiệm của mình, biến cam kết chính trị thành kết quả cụ thể, thiết thực. Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới – Khát vọng – Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu vào năm 2045.

Hiện thực hóa Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới

Nghiêm túc tiếp thu ý kiến chỉ đạo sâu sắc, toàn diện của Tổng Bí thư Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa nhấn mạnh, phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ về Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW, mà còn về Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”, là “Bộ tứ trụ cột” để đất nước cất cánh.

Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương trân trọng cảm ơn các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tâm huyết, dành thời gian chuẩn bị và trực tiếp truyền đạt các chuyên đề, giúp các đại biểu, cán bộ và nhân dân nắm bắt được một cách hệ thống, toàn diện nội dung các Nghị quyết, góp phần quan trọng đưa Nghị quyết nhanh chóng vào cuộc sống.

Hướng dẫn việc quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66- NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đề nghị cấp ủy, tổ chức Đảng tiếp tục tổ chức linh hoạt và phong phú các hình thức, loại hình truyền thông, trong đó phát huy vai trò nòng cốt của các cơ quan báo chí, thông tin cơ sở, phát huy tối đa sức mạnh của nền tảng số, mạng xã hội và công cụ truyền thông mới, để quán triệt, tuyên truyền kết quả Hội nghị.

Bên cạnh đó, tạo bước chuyển biến nhanh chóng, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết mang tính hành động của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị với lộ trình, tiến độ, nội dung cụ thể đã xác định; đề cao vai trò, trách nhiệm, quyết tâm chính trị mạnh mẽ, hành động quyết liệt của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, trước hết là người đứng đầu, trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết.

Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đề nghị bám sát quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết để lan tỏa mạnh mẽ cách làm mới, hiệu quả, sáng tạo của các tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị và cá nhân; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn triển khai thực hiện hiệu quả; kịp thời đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, góp phần đưa Nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống với những kết quả rõ ràng, thực chất và hiệu quả.

Với quyết tâm chính trị cao, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự đồng tâm, đồng lòng, đồng thuận và nỗ lực của toàn dân, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tin tưởng, các Nghị quyết sẽ nhanh chóng được hiện thực hóa, góp phần đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới.

Trưng bày, giới thiệu các thành tựu nổi bật trong xây dựng và thực thi pháp luật, phát triển kinh tế tư nhân

Sáng 18/5, tại Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Trong khuôn khổ Hội nghị, tại điểm cầu chính Nhà Quốc hội, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham dự Hội nghị tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong xây dựng và thực thi pháp luật" và "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân".

Theo đó, Triển lãm có 21 gian hàng của 21 doanh nghiệp, đại diện cho gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân trong cả nước. Các gian hàng trưng bày, giới thiệu những thành tựu nổi bật trong phát triển, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh cũng như các sản phẩm dịch vụ, công nghệ, trí tuệ nhân tạo của các doanh nghiệp tư nhân trong cả nước.

Các gian hàng trưng bày tại triển lãm góp phần minh họa sinh động về sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân trong gần 40 năm qua, kể từ khi đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới, khu vực đang đóng góp trên 51% GDP, hơn 82% việc làm và ngày càng vươn ra thị trường quốc tế.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ban, bộ ngành Trung ương cùng các đại biểu tham quan gian hàng của các doanh nghiệp tư nhân trong nước như gian hàng của Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa Việt Nam phối hợp cùng Tập đoàn Kim Nam Group; Tập đoàn CT Group; Công ty Cổ phần Tập đoàn MK; Cổ phần Ống đồng Toàn Phát; Công ty LiOA; Công ty Cổ phần Hanel; Công ty Cổ phần MISA; Công ty Cổ phần Timo Việt Nam; Công ty Cổ phần Tập đoàn công nghệ CMC; Công ty Cổ phần Tập đoàn Thiên Long; Tập đoàn TTC; Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI; Tập đoàn EuroWindow; Công ty Cổ phần Thành Thành Công - Biên Hòa; Công ty Cổ phần Vàng Bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ); Công ty Cổ phần Đầu tư Tập đoàn Tân Á Đại Thành; Tập đoàn TH; Công ty Du lịch Vietravel; Tập đoàn FPT; Công ty TNHH Địa chính và Xây dựng Nam Hà Nội; Tập đoàn Vingroup...

Qua 21 gian hàng của các tập đoàn tư nhân, đại diện cho gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân trong nước tại Triển lãm, có thể thấy được phần nào sự trưởng thành, lớn mạnh cũng như sự đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân trong mọi ngành nghề, từ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nông nghiệp. Khu vực tư nhân chiếm lĩnh phần lớn thị trường nội địa về hàng tiêu dùng, bán lẻ, xây dựng, du lịch...; đồng thời ngày càng tham gia sâu hơn vào những lĩnh vực trước đây do kinh tế nhà nước thống lĩnh như hạ tầng, năng lượng, tài chính, công nghệ cao.

Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, khẳng định tư duy mới của Đảng, là bước tiến rất quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng… giúp hóa giải định kiến kéo dài nhiều thập kỷ về sự đối lập giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế tư nhân; đồng thời tạo nên nền tảng vững chắc cho chính sách phát triển, tạo động lực mới cho đất nước vươn mình giàu mạnh và thịnh vượng.

Hình ảnh: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham quan triển lãm Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân".

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân".

Nghị quyết 66: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, mở đường cho kiến tạo phát triển

Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp tổ chức bộ máy, tháo gỡ vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật.

Năm 2027, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp.

Năm 2028, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.

Nghị quyết xác định tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; quản trị quốc gia hiện đại với bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

Nghị quyết 68: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia

Nghị quyết số 68 xác định mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chủ trương, đường lối khác của Đảng.

Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm.

Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.

Về tầm nhìn đến năm 2045, nghị quyết xác định, kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP.

Nguồn Chính Phủ: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/hoi-nghi-toan-quoc-quan-triet-trien-khai-nghi-quyet-66-va-nghi-quyet-68-cua-bo-chinh-tri-119250517213032536.htm