Top 10 loài cá cảnh nước ngọt độc lạ nhất thế giới
Khám phá những điều kỳ diệu của thế giới dưới nước ngay tại ngôi nhà ấm cúng của mình luôn là một trải nghiệm hấp dẫn.
Việc thiết lập một bể nước cá cảnh không phải là điều hiếm với mỗi gia đình. Chúng không chỉ mang ý nghĩa phong thủy mà điều hiển nhiên bởi vì cá là một trong những loài vật được yêu chuộng nhất trên thế giới.
Dưới đây là tổng hợp 10 loài cá cảnh nước ngọt không chỉ đẹp mà còn cực độc lạ, đầy mê hoặc từ màu sắc đến hình dáng…
CÁ THỦY TINH
Cá kính, còn gọi là cá trê kính, cá thủy tinh là một loài cá của chi Kryptopterus.
Loài cá nheo này thường được thấy trong buôn bán cá cảnh nước ngọt, nhưng cho tới gần đây thì phân loại của nó lại lộn xộn gây nhầm lẫn. Nó là loài cá đặc hữu của Thái Lan, chỉ được tìm thấy tại các con sông ở phía nam eo đất Kra và đổ vào vịnh Thái Lan cùng các lưu vực sông trong dãy núi Cardamom. Cũng có báo cáo chưa được xác nhận về sự hiện diện của loài này tại Penang ở Malaysia.
Cho tới năm 1989, người ta cho nó là Kryptopterus bicirrhis, một loài to lớn hơn nhưng hiếm khi nhìn thấy trong buôn bán cá cảnh. Sau đó, khi danh pháp Kryptopterus minor được đặt ra năm 1989 thì người ta lại cho rằng cá kính thường thấy trong buôn bán cá cảnh là K. minor.
Tới năm 2013, người ta đã xác định được là các mẫu vật bể cảnh trên thực tế là loài khác hẳn và được miêu tả như là K. vitreolus. Loài K. minor thật sự thì chỉ hạn chế trong khu vực miền tây Borneo và cũng rất hiếm khi được buôn bán làm cá cảnh
Cá thủy tinh có cơ thể dài và mỏng, trong suốt như thủy tinh hiện rõ cả xương và nội tạng bên trong thân mình.
CÁ SẶC SAMURAI
Sphaerichthys vaillanti, còn được gọi là cá sặc sô cô la Vaillant, cá sặc Samurai, hoặc cá sặc ngựa vằn Samurai. Loài này có nguồn gốc từ châu Á, nơi chúng chủ yếu được biết đến ở sông Kapuas, phía tây Kalimantan, vùng Borneo, Indonesia.
Loài này thường được nhìn thấy theo cặp ở các lạch nhỏ hoặc cống rãnh nơi có nhiều mảnh vụn gỗ. Chúng được biết đến với khả năng bắt chước lá chết như một hình thức ngụy trang. Có chiều dài tiêu chuẩn khoảng 6cm và nổi bật với màu sắc rực rỡ từ đỏ, vàng đến các hoa văn phức tạp.
Không giống như nhiều loài cá khác, cá cái của loài cá ấp miệng này thực sự bắt đầu hành vi tán tỉnh và trong thời gian này, chúng sẽ đứng thẳng nhiều giờ trong quá trình sinh sản. Sau đó, cá cái sẽ đẻ trứng, khoảng 10 - 40 quả và cá đực sẽ gom chúng vào miệng. Tiếp đến, cá đực sẽ ẩn náu trong khi cá cái canh gác khu vực để bảo vệ trứng.
Loài này được săn lùng rất nhiều trong ngành buôn bán cá cảnh khiến nó dễ bị tuyệt chủng do bị thu thập hàng loạt. Sự phá hủy môi trường sống và ô nhiễm từ hoạt động khai thác vàng bất hợp pháp cũng đe dọa loài cá này, vì vào thời điểm phát hiện và nỗ lực bảo tồn, người ta suy đoán rằng một lượng lớn quần thể đã bị mất do hành động của con người.
CÁ TRỰC THĂNG
Cá trực thăng (Royal Farlowella Catfish) là loài vây trơn, có thân hình nhỏ, vây nhọn bắt mắt, toàn cơ thể phủ lớp vảy cứng như bọc giáp với chiếc đuôi dài nổi bật như chiếc trực thăng.
Chiều dài cơ thể tối đa của loài cá này là 20cm. Cá trực thăng ăn rêu và thức ăn thừa nên thường được nuôi làm cá dọn bể rất nhiều ở các bể cá cảnh.
Cá trực thăng đen trong điều kiện sinh sản, một con đực sẽ chọn một hang động nhất định và dọn dẹp sạch sẽ hang động này. Một con cái sẽ ghé thăm hang động và ký gửi trứng để con đực có thể thụ tinh.
Con cái sẽ không còn đóng vai trò gì nữa, tất cả nhiệm vụ canh giữ trứng và ấp cho trứng nở sẽ dành cho con đực. Cá đực sẽ che chở trứng bằng thân mình và bảo vệ trứng không bị tấn công.
CÁ RẮN
Reedfish còn được gọi là Rope Fish, Dragon Fish hay Snake Fish bởi chúng có cơ thể dài ngoằng như một con rắn. Chúng hoạt động mạnh về đêm, ban ngày thường lẩn trốn trong các hang động, kẽ đá.
Tuy nhiên, trong môi trường bể nuôi, chúng sẽ tích cực ra ngoài hoạt động hơn nhiều. Chúng có khả năng hít thở bằng phổi nên sẽ có xu hướng thoát lên trên cạn khi gặp môi trường không thuận lợi.
Là một loài cá khá lớn, chúng có thể dễ dàng đạt chiều dài đến 1m. Cá có đầu giống như đầu rắn và có thân dài, vảy nhỏ cũng giống rắn. Khác biệt chút là chúng có 2 vây mang ở phần đầu và có vây bụng, vây lưng, vây đuôi nhỏ xíu ở chóp đuôi.
Đây là một loài cá khá hiền và dễ nuôi, dễ chăm, chúng có nguồn gốc từ Tây Phi.
CÁ MŨI VOI
Cá mũi voi Peters (Gnathonemus petersii) là một loài cá voi nước ngọt châu Phi thuộc chi Gnathonemus. Loài cá này sử dụng điện định vị để tìm con mồi và có tỷ lệ sử dụng oxy não - cơ thể lớn nhất trong số tất cả các loài động vật có xương sống đã biết.
Cá mũi voi Peters có nguồn gốc từ các con sông ở Tây và Trung Phi, đặc biệt là lưu vực hạ lưu sông Niger, lưu vực sông Ogun và thượng lưu sông Chari. Chúng thích những con sông và ao nước lầy lội, chảy chậm có lớp phủ như cành cây ngập nước.
Loài cá này có màu nâu sẫm đến đen, dẹt theo chiều ngang (trung bình 23 - 25cm), với vây lưng sau và vây hậu môn có cùng chiều dài, vây đuôi chẻ đôi. Chúng có hai sọc ở phần đuôi dưới. Đặc điểm nổi bật nhất của chúng, như tên gọi, là một phần nhô ra giống như thân cây trên đầu.
Đây thực chất không phải là mũi mà là phần mở rộng nhạy cảm của miệng, chúng sử dụng để tự vệ, giao tiếp, định hướng nhằm tìm giun và côn trùng để ăn. Cơ quan này, được gọi là Schnauzenorgan, được bao phủ bởi các thụ thể điện, giống như phần lớn phần còn lại của cơ thể.
Cá mũi voi sử dụng điện trường yếu, được tạo ra bằng các tế bào chuyên biệt gọi là tế bào điện, tiến hóa từ tế bào cơ, để tìm thức ăn, di chuyển trong vùng nước tối hoặc đục và tìm bạn tình. Cá mũi voi Peters sống đến khoảng 6 - 10 năm.
CÁ RÌU
Cá rìu cẩm thạch (Carnegiella strigata) là một loài cá vây tia nước ngọt nhỏ, dài 3,5cm. Loài cá nhỏ có thân sâu này thuộc chi Carnegiella, thuộc họ Gasteropelecidae bao gồm cả Gasteropelecus và Thoracocharax, có nguồn gốc từ Nam Mỹ.
Cá có hình rìu, thân hình dẹt sang 2 bên, có một đường màu vàng kéo dài từ mắt đến vây đuôi trong khi vùng bên dưới có hoa văn giống đá cẩm thạch màu nâu và kem (do đó có tên như vậy). Dọc theo hai bên, cá rìu cẩm thạch có vây ngực giống như cánh đặc biệt cho phép chúng "nhảy" ra khỏi nước.
Sự thích nghi này giống như cá chuồn được tìm thấy ở đại dương, nhưng có kích thước nhỏ hơn. Vây đuôi ngắn, được sử dụng để giữ ổn định và kiểm soát khi chúng bơi chậm trên bề mặt.
Chúng cũng có miệng hếch lên dùng để kiếm ăn trên bề mặt nước và nổi trên mặt nước. Cá cái có xu hướng bụng to hơn so với cá đực vì cơ quan sinh sản của chúng.
Cá rìu cẩm thạch thích nghi với cuộc sống ở các con sông Amazon vì chúng trông giống như một chiếc lá chết trôi ngang trên bề mặt của một vùng nước. “Lớp ngụy trang” này bảo vệ chúng khỏi những kẻ săn mồi tiềm tàng có thể ẩn núp trong nước.
Hoa văn giống như vân đá của chúng là tạo ra ảo giác về những tia sáng phá vỡ bề mặt nước và phản chiếu trên chiếc lá được miêu tả. Bản thân con cá không di chuyển nhiều, chủ yếu để sóng và dòng nước di chuyển, nhưng thỉnh thoảng có những chuyển động co giật ngắn.
Điều này mô phỏng cách một chiếc lá bị thủy triều hoặc dòng nước thổi bay hoặc cuốn trôi. Đường chạy từ mắt đến đuôi của nó được cho là mô phỏng gân giữa (gân giữa) của một chiếc lá.
CÁ BƯỚM
Cá bướm châu Phi hay cá bướm nước ngọt (tên khoa học Pantodon buchholzi), là loài duy nhất trong chi đơn loài Pantodon, họ Pantodontidae trong bộ Osteoglossiformes. Nó không có liên quan chặt chẽ với họ cá bướm.
Cá bướm nước ngọt là loài cá nhỏ, không lớn hơn 13cm, có vây ngực rất lớn. Có bong bóng lớn và nhiều mạch máu cho phép chúng có thể thở bằng không khí trên mặt nước. Đây là loài cá ăn thịt, thức ăn chủ yếu là các loài côn trùng và cá nhỏ hơn.
Là thợ săn mặt nước chuyên nghiệp, mắt của chúng hướng thẳng lên mặt nước, miệng thì thích hợp để bắt con mồi nhỏ trên mặt nước. Nếu tốc độ trong nước đủ nhanh, cá bướm nước ngọt có thể nhảy và lướt một đoạn ngắn trên mặt nước để tránh bị ăn thịt. Nó cũng vẫy vây ngực khi lướt trên mặt nước do các cơ ngực đặc trưng, khả năng này khiến cho chúng có tên là cá bướm nước ngọt.
Khi cá bướm nước ngọt đẻ trứng, chúng sinh ra một lượng trứng lớn nổi trên mặt nước. Sự thụ tinh trứng được cho là từ trong bụng cá. Trứng nở sau khoảng 7 ngày.
CÁ DAO
Cá dao ma đen (tên khoa học Apteronotus albifrons), là một loài cá thuộc họ Apteronotidae. Chúng có nguồn gốc từ Nam Mỹ trong các lưu vực sông Amazon ở Peru và từ Venezuela qua Paraguay tại sông Paraná và đang trở nên phổ biến trong các vùng hồ.
Chúng có cơ thể màu đen, ngoại trừ 2 chiếc đốm màu trắng trên đuôi và một đốm màu trắng trên mũi, mà đôi khi có thể mở rộng thành một sọc trên lưng. Loài này di chuyển chủ yếu bằng cách uốn lượn cái vây dài ở thân dưới. Chúng phát triển đến chiều dài tối đa 50cm.
Cá dao ma đen không có vảy, chúng là loài ăn đêm. Đây cũng là một loại cá yếu điện mà sử dụng một cơ quan thụ điện và phân bố trên chiều dài của cơ thể của chúng để xác định vị trí ấu trùng côn trùng.
Cá dao ma đen tự nhiên di chuyển nhanh, đáy lạch cát chảy trong khí hậu nhiệt đới. Người bản địa Nam Mỹ tin rằng những bóng ma của người đã khuất mất nơi cư trú trong những con cá nên đã hình thành tên của loài này.
CÁ TỲ BÀ BƯỚM
Cá tỳ bà bướm hay còn gọi là cá tỳ bà sao (Sewellia elongata) được nuôi nhiều để làm cảnh. Thân chúng thon dài hơn các loại tỳ bà bướm khác, cũng như hoa văn khác biệt hoàn toàn, trên thân có những đốm như da beo và trên các vây lưng, vây ngực có những đốm hoa văn như sao lấp lánh (trân châu).
Cá tỳ bà bướm sống ở khu nước nông, với những con thác có nước chảy mạnh và cá vẫn bám chặt lên các hòn đá đó. Hoặc chúng lẫn trốn trong các khe đá. Những thực vật xung quanh thường phát triển tốt nhờ ánh sáng mặt trời, để làm thức ăn cho cá tỳ bà bướm.
Cá tỳ bà bướm có khả năng có khả năng đi trên cạn và sống không cần nước trong một thời gian dài. Cá cái có thân hình to và bầu bĩnh hơn cá trống.
CÁ CỬU SỪNG
Cá nhiều vây, cá cửu sừng hay cá khủng long, thuộc họ Polypteridae duy nhất của bộ Polypteriformes, chứa các loài cá vây tia Actinopterygii trông rất cổ. Chúng rất phổ biến trong giới nuôi cá cảnh. Tại Việt Nam, chúng cũng được biết tới là Cá cửu long sừng, cá rồng cửu sừng.
Tên của loài cá này được đặt theo số vây như những chiếc sừng trên lưng con cá. Dù có tên là cá rồng cửu sừng, nhưng loài này có thể mang tới 12 chiếc vây trên mình. Một số loài cửu sừng hoàng đế có thân ngắn, số vây có thể giảm xuống chỉ còn 7 chiếc.
Chúng có phổi để hít thở không khí và có vây chắc khỏe để kéo cơ thể di chuyển trên mặt đất. Loài cá này sở hữu nhiều đặc điểm tương tự như trong các hóa thạch động vật 4 chân cổ đại. Chúng có các vây dày tương tự như xương và các chuỗi vây lưng nhỏ thay vì có một vây duy nhất.
Là loài cá dữ ăn thịt, cá rồng cửu sừng có thể ăn được các loại thức ăn từ tôm, cá, ếch nhái, côn trùng, giáp xác hay nhuyễn thể. Dù có nguồn thức ăn đa dạng trong tự nhiên, nhưng giống như nhiều loài cá quý hiếm khác, cá rồng cửu sừng từng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do môi trường sống bị xâm phạm. Sau này, cá rồng cửu sừng được bảo vệ thông qua dự án phát triển nuôi nhốt và từ đó trở thành giống cá cảnh được ưa thích trên thế giới.