TP Hồ Chí Minh: Nỗ lực thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng
Từ năm 2021 đến nay, tổng số tiền phải thi hành án trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tại TPHCM đều tăng. Tuy kết quả thu hồi tài sản năm sau cao hơn năm trước nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu tại Nghị quyết số 96/2019/NQ-QH14 ngày 27-11-2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và công tác thi hành án, khi Nghị quyết yêu cầu kết quả thu hồi trên 60% tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt.
Hơn 74.000 tỷ đồng phải thi hành
Năm 2023, số việc phải thi hành án tham nhũng, kinh tế của Cục Thi hành án dân sự (THADS) TPHCM là 468/4.879 việc của toàn quốc. Số tiền phải thi hành án hơn 74.000 tỷ đồng, chiếm 76,87% số tiền phải thi hành của toàn quốc. Kết quả thu hồi hiện đạt hơn 17.000 tỷ đồng, chiếm 87,15% số thi hành xong của toàn quốc. Tổng số vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo tại TPHCM năm 2023 là 40 vụ án. Cục THADS TPHCM đã thi hành xong 3 vụ án gồm: Vụ án VN Pharma, vụ cựu Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng và vụ Phan Văn Anh Vũ do Cục THADS TP Hà Nội ủy thác.
Theo ông Trần Đình Hoàng, Trưởng phòng Nghiệp vụ 2 THADS TPHCM, có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế chưa đạt như mong muốn. Tại TPHCM, nguyên nhân chính là các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo có số lượng bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhiều, dẫn đến số lượng người phải thi hành án nhiều, số tài sản bị chiếm đoạt lớn. Tuy nhiên, tài sản tuyên duy trì kê biên, phong tỏa, tạm giữ, tài sản xác minh được trong giai đoạn thi hành án để đảm bảo thi hành án lại không nhiều. Đến thời điểm hành vi phạm tội bị phát hiện thì đối tượng đã thực hiện việc tẩu tán tài sản hoặc tài sản chiếm đoạt đã bị các đối tượng sử dụng để thực hiện nhiều giao dịch khác nhau.
Số tiền thu được sau khi cơ quan thi hành án phát mãi tài sản, thu giữ, xử lý các tài khoản bị phong tỏa chưa cao, dẫn đến cơ quan thi hành án đã xử lý hết các tài sản của người phải thi hành án nhưng số tiền phải thu hồi còn nhiều. Tài sản phải thu hồi rất lớn nhưng đương sự không có tài sản hoặc có rất ít so với nghĩa vụ phải thi hành, như trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như (nguyên Phó phòng quản lý rủi ro Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - VietinBank; bị cáo buộc chiếm đoạt 4.000 tỷ đồng) hay vụ án Dương Thanh Cường (cựu Tổng Giám đốc Công ty Bình Phát, Chủ tịch HĐQT Công ty Thanh Phát, bị cáo buộc lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây thiệt hại cho Ngân hàng TMCP Phương Nam - Sacombank 505 tỷ đồng).
Bên cạnh đó, đối với việc kê biên xử lý tài sản là vốn góp, việc xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện việc xử lý phần vốn góp chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết, chưa quy định rõ đơn vị thẩm định giá tài sản của doanh nghiệp, giá trị còn lại của doanh nghiệp và giá trị phần vốn góp của người phải thi hành án.
Còn theo ông Ngô Phạm Việt, Trưởng Phòng Kiểm sát giải quyết các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ (Phòng 3) - Viện Kiểm sát nhân dân TPHCM, quá trình giải quyết các vụ án này hiện đang phụ thuộc nhiều vào kết quả giám định để xác định sai phạm và định giá để xác định thiệt hại. Tuy nhiên, công tác này hiện rất chậm chạp.
Sửa đổi quy định pháp luật theo hướng nào?
Để hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng được cải thiện trong thời gian tới thì việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan hiện hành là rất cần thiết. Ông Ngô Phạm Việt kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung các biện pháp đảm bảo thu hồi tài sản như: cấm chuyển dịch quyền về tài sản, cấm thay đổi hiện trạng tài sản, các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và pháp luật tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, VKSND tối cao cần chủ trì phối hợp với các cơ quan liên ngành Trung ương xây dựng thông tư liên tịch về công tác định giá tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng theo hướng có thể thu thập giá thị trường của tài sản tương tự hoặc giá bán tài sản sau đó để xác định được giá trị tài sản và thiệt hại của vụ án.
ThS Nguyễn Đức Hiếu (Giảng viên Trường Đại học Quốc tế - ĐHQG TPHCM), phân tích thêm: Với nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam là thành viên và Hiến pháp năm 2013 thì việc kiến nghị phong tỏa, kê biên tài sản ngay từ giai đoạn tiền khởi tố là không khả thi. Vì vậy, cần chuyển biến tư duy từ việc quy định là thu hồi các tài sản thông qua các hoạt động tố tụng sang các hoạt động mang tính chất tiền tố tụng, ít nặng nề nhưng nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Dẫn kinh nghiệm ở Australia, ThS Nguyễn Đức Hiếu cho biết, khi thanh tra, kiểm tra các tài sản tăng một cách đột biến mà chủ sở hữu không chứng minh được thì có thể kê biên, tịch thu, đặc biệt là các tài sản của quan chức. “Điều này tuy không tốn quá nhiều công sức nhưng có tính răn đe rất lớn và tạo được chuyển biến rất lớn, nếu được áp dụng ở nước ta”, ThS Nguyễn Đức Hiếu nhận định.
Thách thức thu hồi tài sản trong vụ Vạn Thịnh Phát
Vụ án Vạn Thịnh Phát có 86 bị can và hơn 42.000 bị hại, số tiền phải thu hồi trong vụ án ước tính là hơn 400.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, hàng ngàn tài sản đã được cơ quan điều tra kê biên để đảm bảo thi hành án ra xét xử. Đây sẽ là thách thức rất lớn với Cục THADS TPHCM.