TP Hồ Chí Minh thúc đẩy liên kết ba nhà cho tiêu dùng xanh
Theo các chuyên gia kinh tế, hiện nay xu hướng chuyển đổi xanh là tất yếu nhưng để sản phẩm xanh thực sự đi vào thị trường, cần sự phối hợp bền chặt giữa nhà nước – nhà trường – nhà doanh nghiệp, cùng với nền tảng đạo đức kinh doanh minh bạch.

Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng cao TP Hồ Chí Minh chia sẻ về các giải pháp tiêu dùng xanh.
Đưa sản phẩm xanh vào đời sống
Ngày 21/11, tại tọa đàm “Công trình Xanh - Tiêu dùng Xanh” trong khuôn khổ chương trình Unitour, bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam Chất lượng cao TP Hồ Chí Minh cho biết, hoạt động R&D chính là “nguồn sống” của hàng Việt, là yếu tố then chốt quyết định sức cạnh tranh và sự tồn tại của doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường biến động nhanh. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa phát huy hết tiềm năng vốn có, chủ yếu vì thiếu sự kết nối chặt chẽ giữa ba trụ cột quan trọng: Nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp.
Theo bà Vũ Kim Hạnh, nhà khoa học cần thời gian dài để theo đuổi các đề tài chuyên sâu, đi đến tận cùng bản chất vấn đề, trong khi doanh nghiệp lại chịu áp lực doanh thu, thị phần và chiến lược kinh doanh, buộc họ phải tìm kiếm những giải pháp mang tính ứng dụng nhanh. Sự chênh lệch về nhịp độ này tạo ra khoảng cách đáng kể.
Có thể thấy, các nghiên cứu dù có giá trị khoa học nhưng lại khó bước ra khỏi phòng thí nghiệm để trở thành sản phẩm thương mại thực sự. Nhiều khi doanh nghiệp muốn ứng dụng nhưng không “bắt sóng” được với cách làm việc của nhà trường; ngược lại, nhà nghiên cứu dù tâm huyết nhưng không biết kết quả mình tạo ra có được thị trường đón nhận hay không.

Các đại biểu cùng nhau chia sẻ những giải pháp cho doanh nghiệp phát triển xanh bền vững.
Từ góc nhìn thực tế, PGS.TS Ngô Đại Nghiệp, Trưởng phòng Quan hệ đối ngoại Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh cho biết, phần lớn nghiên cứu hiện nay chỉ dừng lại ở quy mô thử nghiệm nhỏ, không đủ nguồn lực để phát triển tiếp thành sản phẩm mẫu hoặc tiến đến giai đoạn sản xuất thử nghiệm. Điều này dẫn đến vòng lặp quen thuộc,đề tài nghiên cứu xong thì nằm trong tủ sách hoặc lưu trữ trong thư viện, ít khi có cơ hội bước ra đời sống. Trớ trêu hơn, nhiều doanh nghiệp nằm sát bên các cơ sở nghiên cứu nhưng lại không chủ động tìm đến hợp tác. Một phần vì lo ngại rủi ro khi đầu tư vào những công nghệ chưa được chứng minh, một phần vì thiếu thông tin về khả năng ứng dụng thực tế của các nghiên cứu. Thậm chí, một số doanh nghiệp e ngại quy trình làm việc với trường đại học sẽ kéo dài, không phù hợp với tốc độ ra quyết định của thị trường.
"Hệ quả của sự thiếu kết nối này bộc lộ rõ trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng xanh ngày càng tăng. Người tiêu dùng Việt Nam đang chú trọng hơn đến các sản phẩm an toàn, tự nhiên, thân thiện môi trường. Nhưng để đáp ứng xu hướng đó, doanh nghiệp phải tiếp cận được nguyên liệu xanh, bao bì bền vững, kỹ thuật sản xuất tiết kiệm năng lượng hay công nghệ xử lý chất thải, những yếu tố mà các viện, trường đã nghiên cứu từ lâu nhưng chưa được chuyển giao một cách thông suốt. Không ít doanh nghiệp rơi vào thế lúng túng vì thiếu hướng dẫn khoa học, phải tự mày mò từ đầu, tốn kém thời gian và chi phí", ông Đại Nghiệp cho biết thêm.
Theo các chuyên gia kinh tế, đằng sau mỗi sản phẩm là cả quá trình dài hoàn thiện công thức, thử nghiệm, đánh giá độ an toàn, tìm nguồn nguyên liệu phù hợp, tối ưu dây chuyền sản xuất và cuối cùng là chinh phục người tiêu dùng. Rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ nguồn lực để tự mình làm tất cả những việc này nếu không có sự hỗ trợ từ phía nhà trường và nhà nước.
Điều này cho thấy, muốn sản phẩm xanh trở nên phổ biến hơn, rẻ hơn và dễ tiếp cận hơn, việc tháo gỡ các điểm nghẽn trong kết nối ba nhà là nhiệm vụ cấp thiết. Không chỉ cần tăng cường đối thoại mà còn phải xây dựng cơ chế phối hợp bền vững để nghiên cứu không nằm trên giấy, doanh nghiệp không tự loay hoay và người tiêu dùng không phải trả giá cao cho những sản phẩm mang tính bền vững. Khi dòng chảy tri thức được thông suốt và thị trường có sự đồng hành từ khoa học, sản phẩm xanh Việt Nam mới thực sự có cơ hội cất cánh.
Những nền tảng cần cho phát triển xanh
ThS Văn Chí Nam, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh cho biết, nhà trường đang chủ động đổi mới đào tạo lẫn nghiên cứu, xây dựng chương trình mang tính liên ngành và tăng thời lượng thực hành để sinh viên có khả năng tham gia các dự án công nghệ xanh ngay từ khi còn học. Cùng với đó, trường đã đầu tư thêm phòng thí nghiệm, trang thiết bị và nguồn lực để tiếp nhận các bài toán thực tiễn từ doanh nghiệp.
Mục tiêu của nhà trường về lâu dài là trở thành trung tâm chia sẻ tri thức về nguyên liệu xanh, công nghệ sinh học và bao bì bền vững, nơi doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm kiếm các giải pháp công nghệ và nguồn nhân lực có chuyên môn. Đây không chỉ là hướng đi mang tính chiến lược của nhà trường mà còn là nền tảng để thiết lập một hệ sinh thái nghiên cứu - ứng dụng liền mạch và hiệu quả hơn.
Ở phía doanh nghiệp, bà Từ Lê Thanh Vy, Phó Tổng Giám đốc Intermix cho biết, xu hướng chuyển đổi xanh đang trở thành yêu cầu bắt buộc trong bối cảnh người tiêu dùng ngày càng ưu tiên sự an toàn, tự nhiên và thân thiện môi trường. Theo bà Thanh Vy, doanh nghiệp không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chủ động tìm kiếm nguyên liệu theo hướng khoa học xanh, thử nghiệm bao bì giấy hoặc bao bì tái chế, dù chi phí cao hơn và thời gian tiếp cận công nghệ còn hạn chế. Một số dự án của doanh nghiệp phải kéo dài vì chưa có đủ dữ liệu và nghiên cứu từ phía nhà trường để đối chiếu.
Vì vậy, bà Vy cũng kỳ vọng, các trường đại học có thể chia sẻ nhiều hơn những nghiên cứu đã hoàn thiện hoặc đang trong quá trình triển khai, giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian thử nghiệm, từ đó giảm áp lực chi phí cho các mô hình sản xuất bền vững.

Các sản phẩm xanh sẽ được nhiều người tiêu dùng lựa chọn hơn.
Không chỉ dừng lại ở câu chuyện công nghệ và kết nối, vấn đề đạo đức kinh doanh cũng được nhắc đến như một nền tảng quan trọng cho phát triển xanh. TS Huỳnh Kỳ Trân, đại diện Công ty Lan Hảo cũng cảnh báo về tình trạng lạm dụng quảng cáo hoặc sử dụng hoạt chất sinh học sai liều, không đúng tiêu chuẩn, khiến người tiêu dùng dễ hiểu lầm về công dụng sản phẩm.
Theo đó, hiện tượng một số sản phẩm bị “đội giá” do chi phí truyền thông quá lớn, khiến người tiêu dùng yếu thế như công nhân hoặc phụ nữ thu nhập thấp, phải trả mức giá cao không tương xứng với giá trị thật. Theo ông Trân, sản phẩm xanh không chỉ xanh về môi trường mà còn phải “xanh” trong cách doanh nghiệp hành xử, trung thực với người mua và có trách nhiệm với cộng đồng. Khi đạo đức được đặt đúng vị trí, quá trình chuyển đổi xanh mới trở nên hiệu quả và bền vững.
Từ những phân tích trên, có thể thấy mô hình “ba nhà” chính là nền tảng không thể thay thế để tạo dựng tương lai xanh cho hàng Việt. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo bằng việc đưa ra chính sách hỗ trợ, cơ chế ưu đãi và các tiêu chuẩn minh bạch giúp doanh nghiệp có định hướng rõ ràng. Nhà trường đảm nhận trách nhiệm sản sinh tri thức, nghiên cứu công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu mới của nền kinh tế xanh. Doanh nghiệp là đơn vị hiện thực hóa những nghiên cứu này thành sản phẩm cụ thể phục vụ thị trường.
Ngoài ra, một số chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, Việt Nam cần xây dựng hệ thống dữ liệu mở về công nghệ xanh, tiêu chuẩn xanh và thị trường nguyên liệu để doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận. Đồng thời, cơ quan quản lý cũng nên thúc đẩy các quỹ đổi mới sáng tạo, hỗ trợ chi phí thử nghiệm và các chương trình đặt hàng nghiên cứu nhằm rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết và ứng dụng. Khi cả ba trụ cột cùng vận hành theo một nhịp chung, sản phẩm xanh Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh và góp phần thúc đẩy nền kinh tế theo hướng bền vững.












