Trăn trở với khói bếp, nương ngô, đại biểu kiến nghị chính sách cho đồng bào miền núi

Dẫn hình ảnh đồng bào mang 'một con lợn, vài con gà xuống chợ phiên', đại biểu Phạm Văn Hòa đặt câu hỏi: 'Như vậy có được tính là sản xuất hàng hóa hay không?'. Ông nhấn mạnh chỉ người am hiểu đời sống dân tộc mới triển khai chính sách hiệu quả.

Thảo luận tại hội trường sáng nay về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035, nhiều đại biểu Quốc hội nhấn mạnh yêu cầu “tập trung đúng đối tượng, giao đúng cơ quan”, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả trong triển khai.

Chỉ đồng bào dân tộc mới hiểu rõ nhất thực tiễn

Thảo luận về đối tượng thụ hưởng và cơ quan chủ trì chương trình, đại biểu Phạm Văn Hòa (đoàn Đồng Tháp) cho rằng, phần lớn nguồn lực tập trung cho đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, đặc biệt là hộ nghèo và cận nghèo.

Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa. Ảnh: Quốc hội

Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa. Ảnh: Quốc hội

Ông nói rõ: “Đối với các nội dung về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới hiện đại thì nên giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường; còn lại nên giao cho Bộ Dân tộc và Tôn giáo".

Lý giải đề xuất này, đại biểu nhấn mạnh: “Chỉ những người am hiểu về đồng bào dân tộc mới có thể nắm bắt rõ và triển khai hiệu quả".

"Đây là vấn đề rất quan trọng, đề nghị ban soạn thảo và cơ quan chủ trì nghiên cứu theo hướng phân tách rõ ràng, không đồng chủ trì", đại biểu Hòa nhấn mạnh.

Về phạm vi đối tượng, đại biểu đề nghị cần tách bạch hộ nghèo, hộ cận nghèo với đối tượng bảo trợ xã hội để tính toán đúng và giảm được số hộ nghèo thực chất.

Đại biểu Phạm Văn Hòa cũng cho rằng, nhiều mục tiêu của chương trình đang được đặt ra cao hơn khả năng thực tế. Theo dự thảo, tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi năm 2030 giảm còn 10%, trong khi hiện nay là 24%.

Ông thẳng thắn cảnh báo: “Chỉ còn 4-5 năm nữa, từ 24% xuống còn 10% là rất khó đạt. Nếu không đạt chỉ tiêu trong khi Quốc hội đã bấm nút thì ai sẽ chịu trách nhiệm?”.

Tương tự, chỉ tiêu 65% số xã đạt nông thôn mới, tương đương khoảng 2.000 xã cũng được ông đề nghị xem xét lại để bảo đảm tính khả thi.

Nhấn mạnh sự khác biệt của miền núi, đại biểu dẫn lại chia sẻ của một chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực nông nghiệp:

“Miền núi không có đồng ruộng bát ngát, không có máy gặt chạy thẳng cánh cò bay. Đất đai phân tán, dốc núi chia nhỏ từng mảnh nương, thửa ruộng. Nếu cứ cố chen chân vào cuộc đua sản xuất hàng hóa quy mô lớn thì miền núi luôn ở vạch xuất phát thấp hơn. Nhưng tự nhiên lại ưu ái cho miền núi những giá trị mà đồng bằng không có.

Miền núi không cần chạy theo mô hình đồng bằng. Sản xuất hàng hóa ở miền núi không phải là những đoàn xe container nối dài mà là những sản phẩm nhỏ, làm ngay nhưng rất quý giá.

Khách du lịch lên miền núi không chỉ để mua sắm hàng hóa mà để trải nghiệm, nghe tiếng suối, ngửi mùi khói bếp, nhìn bàn tay người phụ nữ dân tộc nhuộm chàm, nếm vị rượu ngô; thấy người đàn ông cõng bó củi, gùi nông sản xuống chợ phiên.

Miền núi không chỉ là hàng hóa, đó là văn hóa, là câu chuyện của cộng đồng, là hơi thở núi rừng. Nông sản gắn với du lịch trải nghiệm thì sản phẩm trở thành kỷ niệm, bản sắc thành giá trị gia tăng, tri thức bản địa trở thành nét độc đáo. Mỗi bản làng chọn một sản phẩm thật riêng để đón khách, chân tình và thật bản địa”.

Với hình ảnh người dân cắp “một con lợn, vài con gà” ra chợ phiên, ông đặt câu hỏi: “Như vậy có được tính là sản xuất hàng hóa hay không?”.

Theo ông, nếu dùng thước đo đồng bằng để đánh giá miền núi thì “rất không sát thực tế”.

Từ đó, ông khẳng định: “Chỉ đồng bào dân tộc thiểu số mới hiểu rõ nhất thực tiễn để xác định chỉ tiêu phù hợp".

Tỉnh nghèo lấy đâu vốn đối ứng?

Nguồn lực và tỷ lệ đối ứng tiếp tục là vấn đề được nhiều đại biểu nêu tại hội trường. Đại biểu Hà Sỹ Huân (đoàn Thái Nguyên) phân tích, trong tổng vốn Nhà nước hỗ trợ 500 nghìn tỷ đồng, vốn ngân sách Trung ương chỉ chiếm 100 nghìn tỷ đồng (20%), trong khi ngân sách địa phương là 400 nghìn tỷ đồng (80%). Đại biểu nhận định "cơ cấu này thể hiện tỷ trọng ngân sách Trung ương chưa tương xứng với vai trò chủ đạo. Trong khi đó, tỷ lệ đối ứng của địa phương khá cao, khiến gánh nặng tài chính dồn chủ yếu ở địa phương, tạo áp lực lớn cho các tỉnh khó khăn, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao".

Đại biểu Phạm Văn Hòa cũng cho rằng, việc địa phương đối ứng 400 nghìn tỷ đồng là không khả thi.
Ông phân tích: “Các tỉnh miền núi nghèo thì lấy đâu ra đối ứng? Phải tách rõ địa phương miền núi và đồng bằng. Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng chắc chắn có tỷ lệ khác biệt so với các tỉnh miền núi".

Thêm vào đó, việc huy động 380.000 tỷ đồng từ doanh nghiệp cũng được ông đánh giá là “rất khó”, bởi “nhiều năm qua doanh nghiệp đầu tư vào miền núi rất ít, có tỉnh gần như không có”.

Đại biểu Đỗ Văn Yên. Ảnh: Quốc hội

Đại biểu Đỗ Văn Yên. Ảnh: Quốc hội

Đồng tình với yêu cầu ưu tiên đặc biệt cho vùng khó khăn, đại biểu Đỗ Văn Yên (TPHCM) cho rằng việc phân bổ vốn ngân sách Trung ương phải dựa trên nguyên tắc “ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số”.

Tuy nhiên, để tăng tính hiệu quả, ông đề nghị bổ sung tiêu chí phân bổ dựa trên mức độ hoàn thành mục tiêu và hiệu quả giải ngân giai đoạn trước.

Theo đại biểu Yên: “Việc gắn phân bổ vốn với hiệu quả thực thi sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho các địa phương, giảm tình trạng vốn chậm giải ngân hoặc đầu tư dàn trải”. Ông nhấn mạnh biện pháp này sẽ giúp thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả chương trình.

Thành Huế

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/tran-tro-voi-khoi-bep-nuong-ngo-dai-bieu-kien-nghi-chinh-sach-dan-toc-thieu-so-2469707.html