Trí thức - nguồn lực của phát triển!

Ngày nay khái niệm hệ hình (paradigm) được hiểu tương đối thống nhất, là hệ thống các khái niệm cơ bản, chủ yếu; các nguyên lý mang tính nền tảng; các quy luật chung, các mối quan hệ phổ biến; các tác phẩm kinh điển, mẫu mực. Chiểu theo cách hiểu này thì các cuộc cách mạng khoa học trên thế giới là sự thay thế và đổi mới các hệ hình tư duy.

Đội ngũ trí thức Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực trong xây dựng và phát triển đất nước. Ảnh: ST

Đội ngũ trí thức Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực trong xây dựng và phát triển đất nước. Ảnh: ST

Ở khoa học tự nhiên là hệ hình Copernik; hệ hình Newton; hệ hình hóa học; hệ hình Anhxtanh. Ở lĩnh vực lịch sử tư tưởng có ba loại/hệ hình: Phục hưng với lối tư duy tương tự; Cổ điển với tư duy trên cơ sở phân loại; Hệ thống hóa/tư duy cận đại với quan niệm lịch sử. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là tư duy Nhảy vọt (tư duy số hóa). Để có một hệ hình tư duy mới, nhân loại phải đợi cả trăm năm, thậm chí nghìn năm, vì kiến tạo nên hệ hình phải là những vĩ nhân kiệt xuất.

Theo lý thuyết này, lịch sử nước ta có ba lần thay đổi hệ hình: Ngô Quyền giành lại độc lập từ quân xâm lược nhà Hán chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc; Lê Lợi đòi tự do từ quân cướp nước nhà Minh tàn ác với dã tâm đồng hóa thâm độc; Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ở chỗ không chỉ khởi xướng, lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Tám, còn đồng thời kiến tạo một Nhà nước dân chủ mới và kiến tạo một hệ hình mỹ học mới. Dưới ánh sáng của triết học liên văn hóa (The Intercultural Philosophy), thế giới đánh giá cao ý nghĩa cuộc cách mạng do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã hội tụ, kết tinh những thành tựu của các cuộc cách mạng tiến bộ trước đó, tập hợp được những trí thức tên tuổi để xây dựng một mô hình nhà nước tiêu biểu, như ngọn đèn soi sáng cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới học tập. Hồ Chí Minh thực sự là một trí thức lớn!

Tháng 9/1945, giành được chính quyền nhưng ngân khố quốc gia sa vào tình trạng kiệt quệ, vận nước mong manh bởi thù trong giặc ngoài, Bác Hồ vẫn chủ trương giải quyết hai nhiệm vụ cấp bách, đó là: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Đây là cách giải quyết tuyệt vời nhất trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất để cố gắng mang hạnh phúc cho dân. Bởi, dân đói, dân dốt là bất hạnh lớn nhất của bất cứ quốc gia nào và ngược lại. Chỉ có những trí thức lớn như Bác Hồ mới có cách giải quyết mang tinh thần nhân văn cao cả, thể hiện tầm trí tuệ vĩ đại trên cơ sở một tình yêu nước, vì dân và rất coi trọng trí thức.

Kế thừa, phát triển và nâng cao truyền thống quý trọng người tài: “Nhất sĩ, nhì nông”; “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”; “Phi trí tắc vong”…, ngay từ khi mới thành lập nước, Bác Hồ chủ trương: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài”. Sau này Người nhấn mạnh: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức”. Người ghi nhận, khẳng định: “Trí thức Việt Nam đã gánh một phần quan trọng trong cuộc kháng chiến cứu quốc và gánh một phần quan trọng trong công việc kiến quốc”.

Khái niệm “trí thức”, hiểu theo nghĩa chung nhất chỉ những người có trình độ học vấn/chuyên môn cao, có tinh thần phản biện và đề cao giá trị đạo đức xã hội. Ngày nay hiểu rộng hơn, ngoài tài, đức, trí thức còn đóng vai trò dẫn đường, là biểu tượng để xã hội học tập. Dưới chính thể dân chủ Hồ Chí Minh, có nhiều tài năng trọn vẹn với danh vị trí thức mang tính tinh hoa, có thể tạm kể, với: Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Toại, Phan Anh, Vũ Đình Tụng, Phạm Bá Trực, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Xiển, Đỗ Xuân Hợp, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Cao Luyện, Hồ Đắc Di, Trần Đức Thảo… Nhiều nhà khoa học được Đảng, Nhà nước vinh danh Anh hùng lao động, với: Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Lương Định Của, Bùi Huy Đáp, Vũ Tuyên Hoàng… Có những bậc trí thức lớn ngoài cống hiến cho đất nước, còn đóng góp cho khoa học thế giới, như: Tôn Thất Tùng (y học), Trần Đức Thảo (triết học), Hoàng Tụy (toán học)…

Là những người lao động sáng tạo và phổ biến tri thức, sự đóng góp của trí thức trong các lĩnh vực đời sống xã hội là động lực nâng tầm trí tuệ và sức mạnh (tinh thần, vật chất) của dân tộc. Nhìn từ góc độ này, trí thức là những nhà văn hóa. Bài học của nhiều nước phát triển đều cho thấy sự khơi dậy nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người, là nhân tố cơ bản nhất. Trong đó đặc biệt chú ý tới đội ngũ trí thức là nguồn lao động chất lượng cao có thể tạo ra những đột phá, mở ra những cơ hội. Vì vậy, họ có nhiều chính sách để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, kể cả thu hút nhân tài từ nước ngoài.

Đất nước ta, Tổ quốc ta vinh danh đội ngũ trí thức đã có những cống hiến lớn lao trên nhiều lĩnh vực đời sống, góp phần đưa đất nước ta thành một nước tự do, độc lập để rồi có một cơ đồ rạng rỡ như hôm nay, có uy tín trên trường quốc tế. Nhờ những nhà khoa học miệt mài quên mình chế tạo, cải tạo vũ khí mà bộ đội ta đánh thắng những đội quân xâm lược hùng mạnh, giàu có. Nhờ đội ngũ y tế, nhờ những nhà nghiên cứu nông học… với những đóng góp khoa học xuất sắc mà nhân dân ta được hưởng cuộc sống khỏe mạnh, ấm no hơn… Nhờ tiếp xúc, cọ xát với những quan điểm, trường phái, với những vấn đề mới, hóc búa, khó giải quyết… nên một thuộc tính của trí thức là tinh thần phản biện. Nhìn từ góc độ này, đội ngũ trí thức Việt Nam đã đóng góp tích cực, hiệu quả qua những phản biện khoa học, những góp ý quý báu góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách, các quyết sách chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong thời hội nhập toàn cầu hóa, trí thức đóng vai trò cầu nối đưa khoa học và công nghệ nước nhà từng bước hội nhập với nền khoa học công nghệ thế giới. Không ai khác ngoài họ có sứ mệnh tiếp thu những thành tựu quốc tế phục vụ cho sự phát triển. Đóng vai trò quyết định trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ… cũng đồng thời, họ chỉ ra những con đường ngắn, thuận lợi nhất để mọi người tiếp xúc, tiếp thu cái mới và đưa ra những cảnh báo các vấn đề tranh chấp trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Trong Cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò trí thức đặc biệt quan trọng. Vì đó là nền sản xuất thông minh tích hợp, hội tụ nhiều công nghệ với các trụ cột công nghệ thông tin, Internet, công nghệ số, công nghệ sinh học. Ngoài nâng cao hiệu quả hoạt động, số hóa, dữ liệu hóa còn làm thay đổi mô hình sản xuất, kinh doanh và phương thức sản xuất… Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI), Dữ liệu lớn (Big Data) và Vạn vật kết nối (Internet of Things) sẽ hướng chủ yếu vào phát minh, sáng tạo, phát triển… Để thành công trong cuộc cách mạng này, không thể không nhờ cậy vào các trí thức khoa học công nghệ có chuyên môn sâu, có trách nhiệm cao với đất nước.

Vì những lẽ trên, việc xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam vững mạnh cả về số lượng, chất lượng chính là tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới tốt đẹp hơn. Là lực lượng sáng tạo, có trình độ học vấn cao, kiến thức chuyên sâu, có năng lực tư duy độc lập, thiên chức của trí thức là sáng tạo cái mới. Xét cả về lý thuyết và trên thực tế, trí thức Việt Nam đã luôn đi đầu trong công cuộc Đổi mới do Đảng phát động đã thu được những kỳ tích đáng tự hào. Thêm nữa, hòa nhập vào mô hình kinh tế tri thức toàn cầu, đội ngũ trí thức nước nhà sẽ trực tiếp góp phần vào công cuộc phát triển nền kinh tế tri thức, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng góp vào sự phát triển tri thức của thế giới. Làm gì để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong bối cảnh hôm nay? Xin được nêu vài ý kiến tham khảo kinh nghiệm từ một vài nước phát triển: Phải có trường đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế; Có chính sách biệt đãi thỏa đáng; Đầu tư cao cơ sở vật chất cho nghiên cứu; Tạo môi trường nghiên cứu, sáng tạo phù hợp.

Xin khép lại bài viết bằng những lời vàng của Bác Hồ: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”; “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức”!./.

PGS,TS. NGUYỄN THANH TÚ

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/tri-thuc-nguon-luc-cua-phat-trien-37920.html