Trong 'ma trận' trái phiếu doanh nghiệp

Việc nhà đầu tư hiện dễ bị lạc/dụ vào 'ma trận' trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) với lẫn lộn thông tin thật giả, mập mờ sẽ góp phần cản trở sự phát triển lành mạnh của thị trường TPDN ở Việt Nam. Bài viết này sẽ chỉ ra những nguy cơ lớn đi kèm với một thị trường TPDN thiếu minh bạch. Một số giải pháp giám sát hữu hiệu cũng sẽ được đề xuất để 'lập lại trật tự' trên thị trường này.

Không chỉ làm “trắng tay” nhà đầu tư...

Trong lĩnh vực tài trợ vốn qua ngân hàng, chủ nợ cuối cùng là người gửi tiền, một dạng đầu tư dưới dạng tiền gửi vào ngân hàng thương mại. Nhưng do đó, người cho vay chịu rủi ro mất vốn chính là ngân hàng chứ không phải người gửi tiền.

Để giảm rủi ro tín dụng (rủi ro mất vốn khi cho vay), ngân hàng phải tiến hành phân tích, đánh giá người vay, khoản vay một cách kỹ lưỡng, giám sát chặt chẽ người vay trước, trong và thậm chí cả sau khi cho vay (khi người vay mất khả năng thanh toán). Không những vậy, ngân hàng còn có nhiều cách tự phòng vệ, ví dụ giữ tài sản thế chấp của người vay và đa dạng hóa các khoản cho vay của mình.

Ngược lại, trong lĩnh vực tài trợ vốn bằng TPDN, chủ nợ cuối cùng phần lớn là nhà đầu tư đại chúng, là những người tự quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Nhà đầu tư đại chúng thì đương nhiên sẽ đông đảo về số lượng, đa dạng về trình độ, nhận thức, và thường có xu hướng ra quyết định đầu tư dựa trên cơ sở lòng tin chứ không phải là những đánh giá chặt chẽ người vay, khoản vay như ở các ngân hàng.

Bởi vậy, mỗi khi có tin xấu về doanh nghiệp phát hành trái phiếu (kinh doanh thua lỗ, gian lận trong phát hành...), nhà đầu tư TPDN chỉ còn biết đổ xô bán tháo trái phiếu. Không chỉ có nguy cơ chịu thiệt hại lớn khi giá trái phiếu rơi tự do mà nhà đầu tư còn chịu rủi ro trắng tay nếu không kịp “thoát hàng” để rồi không còn tìm được người mua, dù với giá “bèo”.

Tuy vậy, hậu quả nguy hại không chỉ xảy ra với nhà đầu tư đại chúng mà còn có khả năng lan rộng ra toàn nền kinh tế. TPDN thực tế được nắm giữ bởi không chỉ nhà đầu tư đại chúng mà còn có các quỹ quản lý tài sản, quỹ đầu tư mạo hiểm, thậm chí các ngân hàng và các tổ chức/doanh nghiệp (phi) tài chính khác.

Đến lượt mình, dựa trên hàng hóa là TPDN, các quỹ, các tổ chức tài chính lại thiết kế và bán các sản phẩm tài chính ra thị trường mà người mua lại chính là các quỹ, các tổ chức/doanh nghiệp khác. Cứ như vậy nhân lên để rồi mỗi khi có một đợt bán tháo TPDN thì thị trường sẽ lại một phen chao đảo mạnh, với chấn động lan truyền ra toàn nền kinh tế. Bởi lẽ, rủi ro trên thị trường TPDN sẽ lan ra các thị trường tài chính khác, đẩy lợi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất ngân hàng tăng mạnh, nhiều doanh nghiệp cũng vì thế mà đối mặt với mất khả năng thanh toán.

Hy vọng nhà đầu tư “khôn” ra chỉ là ảo vọng

Hy vọng nhà đầu tư “khôn” ra, tránh được những khoản đầu tư vào các TPDN “xấu” để không kích hoạt hàng loạt đổ vỡ tiếp theo sẽ chỉ là ảo vọng. Lý do chủ yếu không chỉ, như đã nói, nằm ở sự cả tin và trình độ nhận thức cách biệt quá lớn giữa các nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư tổ chức, mà chủ yếu còn nằm ở chuyện bất đối xứng, không minh bạch về thông tin.

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nhưng thông tin về dự án mà vì đó họ huy động vốn qua phát hành trái phiếu, thường là rất không rõ ràng, không được công bố đầy đủ, thường chỉ chứa đựng những điều tốt đẹp, xán lạn và không ít trường hợp là thông tin không trung thực, mang tính lừa gạt. Nhà đầu tư dù có muốn thì thực tế cũng sẽ rất khó tiếp cận doanh nghiệp phát hành để tìm hiểu, phân tích và đánh giá tính hấp dẫn và an toàn của trái phiếu như cách mà ngân hàng đánh giá người vay tiềm năng.

Bởi vậy, để tránh những xáo trộn, đổ vỡ xảy ra trên thị trường TPDN thì việc trước tiên cần làm là buộc doanh nghiệp minh bạch hóa thông tin, và thông tin minh bạch hóa cũng như bản thân doanh nghiệp cần được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán hoặc công ty kiểm toán chuyên nghiệp, uy tín. Doanh nghiệp và trái phiếu do doanh nghiệp phát hành cũng cần được xếp hạng tín nhiệm bởi các công ty xếp hạng chuyên nghiệp, độc lập.

Do những cơ quan/công ty kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm có quyền và nghiệp vụ tiếp cận và phân tích toàn diện tình hình sức khỏe doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nên nếu họ thực hiện nghiêm túc chức trách của mình, sẽ giúp loại ra ngay được những doanh nghiệp gian dối, phát hành trái phiếu với mục đích lừa đảo, hoặc những trái phiếu có chất lượng thấp, của những doanh nghiệp thuộc loại “phát hành hay là chết”!

Dẫu vậy, với tình trạng thiếu hụt các công ty và đội ngũ nhân lực kiểm toán, đánh giá xếp hạng tín nhiệm có chất lượng cao ở Việt Nam, chưa kể vẫn còn trường hợp kết quả kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm bị bóp méo bởi động cơ vụ lợi như đã từng xảy ra, phải thừa nhận và chấp nhận một khoảng tối nhất định trên thị trường TPDN trong một thời gian nữa cho đến khi các nguồn lực và chế tài hoàn bị hơn. Để rút ngắn khoảng thời gian này thì vai trò giám sát thực thi và hỗ trợ về cơ chế của các cơ quan chức năng là hết sức quan trọng. Nên vẫn có thể nói không quá, không thừa rằng thành công của thị trường TPDN phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực giám sát và tạo dựng thị trường của Chính phủ.

Bên cạnh giải pháp mang tính ngăn ngừa trên là giải pháp giảm thiểu rủi ro hệ thống. Theo đó, cơ quan chức năng cần cô lập việc lan truyền các rủi ro nảy sinh từ sự lao dốc của một TPDN để hạn chế hậu quả lan rộng ra nền kinh tế. Việc cho phép bán các sản phẩm đầu tư phái sinh được “chế tạo” từ TPDN có mức độ rủi ro cao, hoặc việc dùng TPDN này làm tài sản thế chấp để mua TPDN khác... là những việc cần được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và triệt để. Đáng tiếc là dù trên thị trường đã xuất hiện những sản phẩm và nghiệp vụ này nhưng dường như cơ quan chức năng vẫn chưa có động thái xử lý thích ứng nào.

Châu Phan

Nguồn Saigon Times: https://www.thesaigontimes.vn/td/291883/trong-ma-tran-trai-phieu-doanh-nghiep-.html