Trung Quốc có thể mất vị trí nhà nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới

Hoạt động nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Trung Quốc đang đứng trước nguy cơ trải qua một năm ảm đạm nữa, khi nhu cầu công nghiệp thấp hơn kỳ vọng và giá LNG toàn cầu neo ở mức cao.

Tàu chở khí hóa lỏng MV Excelsior neo tại cảng Texas, Mỹ. Ảnh: Bloomberg/TTXVN

Tàu chở khí hóa lỏng MV Excelsior neo tại cảng Texas, Mỹ. Ảnh: Bloomberg/TTXVN

Cụ thể, theo số liệu từ công ty nghiên cứu thị trường BloombergNEF (BNEF), lượng nhập khẩu LNG của Trung Quốc dự kiến sẽ giảm khoảng 15% xuống còn 65 triệu tấn trong năm 2025. Điều này đồng nghĩa với việc Trung Quốc có thể đánh mất vị trí nhà nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới vào tay Nhật Bản.

Tại một hội nghị tuần này, các chuyên gia phân tích của BNEF nhận định rằng triển vọng cho năm 2026 cũng không mấy khả quan khi nhu cầu khí đốt tổng thể được dự báo sẽ sụt giảm . Dự báo đó cho thấy sự tách rời giữa nhu cầu năng lượng và tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc.

Trước khi xung đột Nga – Ukraine nổ ra vào năm 2022 khiến giá năng lượng tăng vọt, Trung Quốc từng là thị trường LNG tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Vào thời điểm đó, nền kinh tế lớn nhất châu Á được BNEF dự báo sẽ đạt mức nhập khẩu 100 triệu tấn vào năm 2026. Tuy nhiên, các nhà phân tích đã buộc phải liên tục hạ dự báo do nhu cầu thực tế yếu hơn mong đợi. Hiện tại, BNEF dự báo nhu cầu cho năm 2026 chỉ ở mức 73 triệu tấn.

Mặc dù làn sóng nguồn cung LNG mới trên toàn cầu có thể làm giảm giá LNG trong năm tới và kích thích một số hoạt động mua vào từ Trung Quốc, nhưng bức tranh nhu cầu vẫn còn nhiều bất ổn. Hoạt động công nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất thép, kính và xi măng – những nguồn tiêu thụ LNG chủ chốt của Trung Quốc – đang suy giảm. Bên cạnh đó, các chiến dịch giải quyết tình trạng dư thừa công suất của nước này cùng căng thẳng thương mại với Mỹ cũng có thể kìm hãm sức mua.

Trong lĩnh vực sản xuất điện, các nhà máy điện khí đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ than đá và sự mở rộng nhanh chóng của năng lượng tái tạo như điện Mặt Trời và điện gió. Tỷ lệ công suất sử dụng của các cơ sở chạy bằng khí đốt đã giảm xuống mức thấp trong 5 năm gần đây, do chi phí LNG tăng cao buộc các nhà máy phải hạn chế sản xuất.

Về phía các đơn vị nhập khẩu, người mua Trung Quốc sẽ có thêm nhiều hợp đồng cung cấp dài hạn bắt đầu có hiệu lực từ năm tới. Tuy nhiên trong bối cảnh nhu cầu nội địa suy yếu, họ có thể chọn chuyển hướng nguồn nhiên liệu này sang các thị trường khác có giá LNG cao hơn, như châu Âu. Điều này có thể củng cố vai trò của Trung Quốc trong việc cân bằng thị trường khí đốt toàn cầu, khi các công ty tại đây chuyển dịch sang vai trò thương nhân thay vì chỉ là người tiêu dùng.

Về dài hạn, nhu cầu khí đốt của Trung Quốc vẫn nhận được hỗ trợ từ việc mở rộng các trạm nhập khẩu, với công suất có thể tăng gấp đôi vào năm 2030. Tuy nhiên, liệu các cơ sở đó có được sử dụng hết công suất hay không sẽ phụ thuộc lớn vào biến động giá cả và nhu cầu thị trường.

Hương Thủy/Bnews/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/trung-quoc-co-the-mat-vi-tri-nha-nhap-khau-lng-lo-n-nha-t-the-gioi/397995.html