Trung tướng Khuất Duy Tiến qua đời

Trung tướng Khuất Duy Tiến, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đã qua đời ngày 23-11 ở tuổi 94.

Thông tin từ gia đình cho biết Trung tướng Khuất Duy Tiến, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đã qua đời hồi 16 giờ 10 ngày 23-11, hưởng thọ 94 tuổi.

Trung tướng Khuất Duy Tiến sinh ngày 27-2-1931, trong một gia đình cố nông ở xã Đại Đồng, huyện Thạch Thất, Sơn Tây (nay thuộc TP Hà Nội).

Trung tướng Khuất Duy Tiến (1931-2024). Ảnh: ĐĐK

Trung tướng Khuất Duy Tiến (1931-2024). Ảnh: ĐĐK

Mới 13, 14 tuổi, ông đã được giác ngộ và tham gia Hội kín. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông cùng thanh thiếu niên trong làng theo người lớn giành chính quyền ở xã, ở huyện.

Kháng chiến toàn quốc, ông tích cực tham gia tuyên truyền, vận động quần chúng và diệt ác, trừ gian tại địa phương. Không may ông bị địch bắt, tra tấn, giam cầm ở Sơn Tây và nhà tù Hỏa Lò nhưng vẫn giữ vững khí tiết. Vượt ngục, ông tiếp tục tham gia hoạt động và nhập ngũ tháng 9-1950 ở Trung đoàn 48, Đại đoàn Đồng bằng 320 liên tục chiến đấu trên địa bàn các tỉnh Sơn Tây, Hòa Bình, Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định và Thái Bình, cùng đơn vị lập nhiều chiến công xuất sắc.

Sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân 1, ông về công tác ở Quân khu 3 một thời gian rồi cùng Sư đoàn 320 lên đường vào Nam chiến đấu. Chiến trường Quảng Trị, Đường 9 - Nam Lào, Đắk Tô - Tân Cảnh, chiến dịch giải phóng Tây Nguyên rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia.

Tiếp theo là gần 10 năm ở cương vị chỉ huy Quân đoàn 3 tham gia giữ địa bàn trọng yếu, bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc và tổ chức hành quân trở lại Tây Nguyên xây dựng Quân đoàn chủ lực trong thế trận mới vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tham gia xây dựng Tây Nguyên an ninh và giàu đẹp. Trước khi được về nghỉ hưu, ông còn có 10 năm đảm nhiệm vị trí Cục trưởng Cục Quân lực và Hiệu trưởng Trường sĩ quan Lục quân 1.

Với những đóng góp của mình, Trung tướng Khuất Duy Tiến được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý gồm: Huân chương Quân công (hạng Nhì, Ва) Huân chương Chiến thắng chống Pháp hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (Nhất, Nhì, Ba), Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng...

Ngày 30-10-2013, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Tóm tắt tiểu sử Trung tướng Khuất Duy Tiến

Từng giữ các chức vụ :

- Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân I,

- Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu

- Tư lệnh Quân đoàn 3.

Phần thưởng cao quý:

Huân chương Quân công (hạng Nhì, Ba)

Huân chương Chiến thắng chống Pháp hạng Ba,

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất

2 Huân chương Chiến công hạng Nhất,

Huân chương Chiến công hạng Nhì,

2 Huân chương Chiến công hạng Ba,

Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhât, Nhì, Ba),

Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Quân hàm:

Được phong Thiếu tướng tháng (4.1984)

Được phong Trung tướng tháng (2.1990).

Tóm tắt tiểu sử:

Trung tướng Khuất Duy Tiến quê tại xã Đại Đồng, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1946, hoạt động tại địa phương làm công tác thanh niên huyện Thạch Thất.

Đầu năm 1950, ông bị địch bắt, sau đó ông vượt ngục tiếp tục hoạt động ở địa phương.

Tháng 9 năm 1950, ông nhập ngũ, là chiến sỹ Đại đội 737, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320.

Từ năm 1952 đến năm 1954, ông là Tiểu đội phó, Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội 27, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320.

Từ tháng 1 năm 1954 đến năm 1955, ông là Trung đội trưởng, rồi Đại đội trưởng Đại đội 129, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 Sư đoàn 320.

Năm 1956, ông được cử đi học tại Trường Sỹ quan Lục quân.

Năm 1958, ông làm công tác huấn luyện tại Sư đoàn 320.

Từ tháng 11 năm 1959 đến tháng 5 năm 1962, ông là giáo viên chiến thuật Trường Quân chính Quân khu 3.

Từ tháng 6 năm 1962 đến năm 1964, ông học tại Trường Trung cao Quân sự khóa 1.

Từ năm 1965 đến tháng 9 năm 1967, ông là Trợ lý huấn luyện Phòng Quân huấn Quân khu 3.

Từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 10 năm 1969, ông là Tham mưu trưởng Trung đoàn 64, Sư đoàn 320.

Từ tháng 11 năm 1969 đến tháng 1 năm 1971, ông là Trung đoàn phó Trung đoàn 64, Sư đoàn 320.

Từ tháng 2 năm 1971 đến tháng 11 năm 1973, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64, Sư đoàn 304, tham gia chỉ huy Trung đoàn chiến đấu tại Đường 9 Nam Lào, đơn vị tham gia bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ trưởng Lữ đoàn dù 3 ngụy Sài Gòn.

Tháng 12 năm 1973 đến năm 1975, ông là Trưởng phòng Tác chiến, Mặt trận B3 Tây Nguyên, sau là Trưởng phòng Tác chiến Quân đoàn 3, tham gia chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh.

Từ tháng 12 năm 1976 đến tháng 11 năm 1979, ông là Sư đoàn phó rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320, tham gia làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Căm pu chia.

Tháng 12 năm 1979, ông là Tham mưu trưởng Quân đoàn 3.

Từ năm 1980 đến năm 1984, ông là Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 3.

Từ tháng 12 năm 1984 đến năm 1989, ông là Tư lệnh Quân đoàn 3.

Tháng 6 năm 1989, ông là Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu. Từ tháng 6 năm 1994 đến tháng 10 năm 1997, ông là Hiệu trưởng Trường Sỹ quan Lục Quân.

Từ tháng 10 năm 1997 đến năm 2001, ông được Nhà nước cho nghỉ chờ hưu, năm 2001 ông có quyết định nghỉ hưu.

(Theo Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)

B.T.V

Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/trung-tuong-khuat-duy-tien-qua-doi-196241124092039194.htm