Trung tướng Phan Thu trong cuộc chiến tranh điện tử với đế quốc Mỹ

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Quân đội ta đã có những nhà khoa học kỹ thuật có đóng góp lớn ở lĩnh vực quân giới, cầu đường như GS Trần Đại Nghĩa, kỹ sư Lê Tâm…

Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đội ngũ trí thức Quân đội ngày càng đông đảo. Một trong những tướng lĩnh nổi bật ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, là Trung tướng Phan Thu, PGS, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông có nhiều đóng góp chống chiến tranh điện tử của Mỹ trong cuộc tập kích đường không của máy bay ném bom B52 trận “Điện Biên Phủ trên không” Hà Nội, cuối năm 1972.

Trung tướng Phan Thu (do bố nuôi của cha ông là người họ Phan, nên ông mang họ Phan, tên đầy đủ là Đào Phan Thu) sinh năm 1931, quê ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Năm 1950, ông nhập ngũ và được cử đi học tại Trường Lục quân khóa 6 ngành Pháo binh ở Trung Quốc. Sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc, ông có thời gian học Khoa Vô tuyến điện, Đại học Bách khoa Hà Nội, tốt nghiệp xuất sắc. Về đơn vị, ông là Trợ lý ra-đa phòng huấn luyện Sư đoàn Phòng không 367.

 Trung tướng Phan Thu, PGS, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Trung tướng Phan Thu, PGS, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Từ năm 1966, máy bay Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc hòng làm giảm sự chi viện cho chiến trường miền Nam. Chúng đưa cả “át chủ bài” máy bay ném bom chiến lược B-52 vào cuộc. Từ đây Quân đội ta bắt đầu một cuộc chiến tranh điện tử ở mức độ cao với Mỹ. Tên lửa, pháo mặt đất của ta bị địch gây nhiễu mạnh rất có thể bị “mù” khi phát hiện mục tiêu. Trước tình hình đó, ngày 10-1-1967, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân quyết định thành lập Đội Trinh sát nhiễu, Thượng úy Phan Thu được cử làm đội trưởng, kiêm Phó phòng Quân báo. Đội được Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ vào Vĩnh Linh, đến tận khu vực Cà Ròn sát biên giới Lào lập trạm trinh sát nhiễu. Ban đầu Đội có 34 người, gồm trắc thủ, thợ sửa chữa ra-đa từ các đơn vị điều về. Nhiệm vụ là nắm tình hình gây nhiễu của địch, nghiên cứu tìm ra biện pháp chống nhiễu và phổ biến kinh nghiệm chống nhiễu trong toàn Quân chủng.

Phan Thu và La Văn Sàng là 2 người đầu tiên thực hiện việc chụp các ảnh nhiễu trên màn hiện sóng của các loại ra-đa tên lửa. Hai nhà “nhiếp ảnh không chuyên”, được nâng tay nghề từng ngày, ảnh đẹp dần, rõ dần qua từng trận. Nhiễu địch tung ra đủ kiểu, đủ loại, với những tên gọi khác nhau mà trắc thủ thường đặt cho theo hình dáng của chúng, như: Nhiễu quét, nhiễu giọt mưa, nhiễu xoắn thừng, nhiễu râu…

Những “nhiếp ảnh viên”, ngoài việc chụp những tấm ảnh chân thực, còn nghiên cứu tìm ra bản chất của sóng nhiễu mà tìm cách đối phó. Chẳng hạn, họ phải trả lời các câu hỏi: Tại sao lại có nhiễu quét? Nó quét vậy thì bám sát dải nhiễu vào đâu mới đúng? Tại sao có nhiễu râu? Với nhiễu râu thì đâu là tín hiệu phải bám sát, đâu là tín hiệu giả phải tránh? Cứ như vậy, Đội nhiễu phải giải thích cho được để làm rõ vì việc này rất hệ trọng, quyết định việc chọn phương pháp bắn và chọn điểm bám sát dải nhiễu để đánh bằng phương pháp “3 điểm”.

Bên cạnh tài liệu phân tích bản chất các dạng nhiễu trên màn hiện sóng ra-đa tên lửa, Đội nhiễu còn xây dựng một tập ảnh nhiễu trên màn hiện sóng các loại ra-đa cảnh giới, ra-đa đo cao, ra-đa cao xạ, ra-đa tên lửa. Tập ảnh này được sử dụng tại các hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu và được in ra nhiều bản gửi đến các đơn vị trong toàn Quân chủng làm tài liệu huấn luyện chiến đấu. Mấy năm đầu, Đội nhiễu hoạt động rất có hiệu quả và trước yêu cầu của thực tế chiến đấu phải mở rộng quy mô. Ngày 16-1-1970, Đội Trinh sát nhiễu được phát triển thành Tiểu đoàn Trinh sát nhiễu, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 8 (D8), Đại úy Phan Thu được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng.

Việc nghiên cứu nhiễu trên màn hiện sóng tên lửa đã góp phần quyết định vào việc xây dựng cách đánh địch. Đặc biệt là qua trận chiến đấu của Tiểu đoàn 84 trên Đường 20, ta phát hiện được B-52 ở cự ly 23km. Tuy chưa bắn rơi nó nhưng cũng cho ta một kết luận là, ra-đa của tên lửa Sam-2 hoàn toàn có thể bắt được B-52 khi chúng bay vào đến một cự ly nhất định, ngay trên nền nhiễu của bản thân nó. Sau này, Phan Thu và đồng đội còn nghiên cứu các loại máy gây nhiễu thu được từ các máy bay Mỹ bị bắn rơi; cải tiến kỹ thuật cho ra-đa pháo; cải tiến chống nhiễu rãnh đạn cho đạn SAM-2…

Đội trưởng Phan Thu đứng đầu bên phải (năm 1967).

Đội trưởng Phan Thu đứng đầu bên phải (năm 1967).

Trong cuốn hồi ký “Bảo vệ bầu trời” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phát hành năm 1982, Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, Phó chính ủy Quân chủng Phòng không-Không quân đã viết: “Rõ ràng, dù phương tiện chiến tranh có phát triển hiện đại đến đâu, đôi khi một biện pháp thô sơ cũng góp phần làm nên chiến thắng. Xuất phát từ suy nghĩ như thế, đồng chí Phan Thu đã mạnh dạn đề xuất với Bộ tư lệnh Quân chủng cho sử dụng loại ra-đa thuộc thế hệ “sắp đưa vào bảo tàng” là K8-60, dùng để bắn B-52. Và kết quả thật bất ngờ! Trong Chiến dịch 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không, chính loại ra-đa này đã bắn được B-52 dễ dàng hơn các loại máy khác…”. Ra-đa K8-60 do Trung Quốc chế tạo, trang bị cho pháo phòng không 57mm. Đây là loại ra-đa khá phổ biến lúc bấy giờ, còn hiện đại hơn cả ra-đa COH-9A vì nó có thêm một dải tần 3cm.

Nhân kỷ niệm 48 năm Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” (1972-2020), Trung tướng Phan Thu viết cuốn sách "Tại sao Việt Nam đánh thắng B-52? Những chuyện bây giờ mới kể" (NXB Trẻ 2020), đã đưa ra nhiều số liệu, kể lại nhiều câu chuyện, đồng thời có những phân tích, lý giải về nguyên nhân tại sao chúng ta lại đánh bại cuộc tấn công bằng B-52 của Mỹ.

Tác giả lý giải: “Chính những hình ảnh nhiễu trên màn hiện sóng của ra-đa K8-60 đã vạch mặt pháo đài bay B-52 hiện đại của Mỹ; và cũng chính bộ đội Phòng không Việt Nam đã phát minh ra phương pháp 3 điểm, cải tiến kỹ thuật cho tên lửa SAM-2 để chống nhiễu rãnh mục tiêu và rãnh nhiễu đạn tên lửa…”. Trong 12 ngày đêm B-52 đánh Hà Nội, các ra-đa K8-60 trang bị cho Tiểu đoàn 57 và Tiểu đoàn 79 đã nhiều lần bắn được B-52 và đóng vai trò quan trọng chỉ dẫn chính xác vị trí B-52 cho đài điều khiển tên lửa. Trong hội nghị rút kinh nghiệm đánh B-52 đêm Noel ngày 24-12-1972, tại sở Chỉ huy Quân chủng ở trong hầm núi chùa Trầm, Tư lệnh Lê Văn Tri đã lệnh cho tất cả các ra-đa K8-60 nằm trên địa bàn Hà Nội, từ ngày 25-12 trở đi phải mở máy bắn B-52. Nếu phát hiện được thì phải thông báo ngược về Sở chỉ huy Trung đoàn, Sư đoàn và Quân chủng.

Đầu năm 1973, sau trận thua trên bầu trời Hà Nội, Mỹ phải ký Hiệp định Paris, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Một lần Trung tướng Phan Thu có dịp đi cùng cán bộ của Cục 2 (nay là Tổng cục 2) vào Nhà tù Hỏa Lò hỏi cung giặc lái Mỹ. Viên Trung tá, sĩ quan điện tử trong tốp lái B-52 là Uy-li-am Côn-li, khi được hỏi có phát hiện ra-đa mặt đất làm việc ở dải sóng 3 cm không? Hắn trả lời: “Có thấy. Nhưng tôi không quan tâm, vì đó là sóng của ra-đa pháo cao xạ, không bắn tới được độ cao của B-52 của chúng tôi…”. Rõ ràng ngày đó địch không thể ngờ, “anh chàng cổ lỗ sĩ” nhờ tài trí Việt Nam lại phát huy tối đa hiệu quả đến thế! Trung tướng Phan Thu khẳng định: “Chúng ta đã giành thắng lợi bằng chính thực lực, sức mạnh của mình mà không hề có sự may rủi nào! Điều quan trọng là chúng ta đề cao vai trò con người trong chiến tranh, trong nghiên cứu nhiễu và chống nhiễu, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và vũ khí, trang bị; chính trị, tư tưởng và kỹ thuật; kỹ thuật và chiến thuật; cải tiến kỹ thuật nâng cao khả năng của vũ khí trang bị và huấn luyện bảo đảm thành thạo thao tác của người chiến sĩ”.

Mỹ đã phải chịu thua, đúng như Bác Hồ đã tiên đoán: “Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. Kissinger, Ngoại trưởng, Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Mỹ Nixon cũng phải thú nhận: “Không lực Hoa Kỳ đã vấp phải một hệ thống phòng không hiệu quả nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới, với kỹ thuật hiện đại chống lại kỹ thuật hiện đại của Mỹ”. Phó chỉ huy không quân chiến lược Mỹ George Etter đã phải thú nhận: “Tổn thất về máy bay chiến lược B-52 cùng các nhân viên phi hành đoàn là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào các nhà hoạch định chính sách của Lầu Năm Góc”. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara phải thừa nhận: “Những cuộc ném bom hủy diệt của Mỹ không thể tiêu diệt được ý chí của cả một dân tộc”. Tạp chí Không lực Hoa Kỳ cũng cay đắng thừa nhận: “B-52 được tung ra với số lượng chưa từng có, để cuối cùng phải chấp nhận một kết cục bi thảm chưa từng thấy. 7 giờ sáng ngày 30-12-1972, Tổng thống Mỹ Nixon buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, và 16-1-1973 phải tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam…

Tác giả viết bài này, mới đây có dịp đến nhà riêng thăm Trung tướng Phan Thu. Tuổi đã ngoài 90, tuy đi lại có khó khăn hơn trước, song ông vẫn minh mẫn. Và những kỷ niệm về 12 ngày đêm Hà Nội Chiến thắng B52 còn tươi rói trong tâm khảm vị tướng già.

Đến giờ mà vị tướng già vẫn còn những điều tiếc nuối. Ông cho rằng: Lúc đó chúng ta đã nắm được là B-52 không gây nhiễu ra-đa sóng 3cm mặt đất, đã phát hiện ra-đa K8-60 có rãnh sóng thứ 2 làm việc với sóng 3cm, tiến hành cải tiến thành công và chứng minh thực tế. Bên cạnh đó đã có chủ trương của lãnh đạo, điều kiện và khả năng có thể triển khai rộng khắp. Nếu ta cải tiến ngay 6 bộ theo đúng chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân chủng thì khả năng đóng góp cho chiến dịch sẽ tốt hơn nhiều...

Thiếu tướng, PGS, Viện trưởng Phan Thu ở giữa (năm 1986).

Thiếu tướng, PGS, Viện trưởng Phan Thu ở giữa (năm 1986).

Hơn nửa thế kỷ phục vụ Quân đội, Trung tướng, PGS Phan Thu đã giữ nhiều trọng trách. Ngày 25-8-1970, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, khi đó, ông đang là Phó phòng Quân báo kiêm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn trinh sát nhiễu. Sau này ông lên Đại tá, Viện trưởng Viện Kỹ thuật quân sự (1981); Thiếu tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật (1988); Trung tướng, chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế (1989); Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế (1993).

Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa 6 (dự khuyết), khóa 7; Đại biểu Quốc hội khóa 8, khóa 9. Năm 1997 ông nghỉ hưu ở tuổi 66./.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/tuong-linh-viet-nam/trung-tuong-phan-thu-trong-cuoc-chien-tranh-dien-tu-voi-de-quoc-my-1013520