Trường ĐH nêu giải pháp phát triển nhân lực sinh học, công nghệ sinh học, y sinh
Để phát triển ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh cần tái cấu trúc chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn sản xuất.
Một trong những mục tiêu đáng chú ý đến năm 2030 tại Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045 là số người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ.
Phát triển nhân lực chất lượng cao nhóm ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh còn nhiều rào cản
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành – Trưởng khoa, Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 nhận định, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, nhóm ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đang trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hiện đại và bền vững.
Công nghệ sinh học ngày càng thể hiện vai trò thiết yếu trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, y tế, môi trường và công nghiệp. Trong nông nghiệp, công nghệ này giúp lai tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, khả năng chống chịu tốt với biến đổi khí hậu, góp phần bảo đảm an ninh lương thực. Trong lĩnh vực y tế, công nghệ sinh học và y sinh hỗ trợ nghiên cứu, sản xuất vaccine, thuốc điều trị, chẩn đoán bệnh chính xác, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe.
Bên cạnh đó, công nghệ sinh học còn mở ra nhiều giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường, phát triển năng lượng tái tạo và vật liệu sinh học, đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển bền vững.
Những tiến bộ trong lĩnh vực này không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống, mà còn tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thu hút đầu tư và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhóm ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đang đối mặt với nhiều rào cản.
Thứ nhất, cơ sở vật chất và trang thiết bị tại nhiều cơ sở đào tạo còn hạn chế, đặc biệt là thiết bị phục vụ thực hành và nghiên cứu chuyên sâu.
Thứ hai, đội ngũ giảng viên trình độ cao, nhất là tiến sĩ, vẫn thiếu hụt, trong khi yêu cầu cập nhật kiến thức mới diễn ra liên tục trong thời đại công nghệ thay đổi nhanh chóng.
Thứ ba, chương trình đào tạo ở một số cơ sở giáo dục chưa bám sát nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và thị trường lao động. Hệ quả là sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng thực hành, kinh nghiệm làm việc thực tế và khó đáp ứng yêu cầu công việc.
Thứ tư, mối liên kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, khiến việc chuyển giao công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa đạt hiệu quả cao.
Thứ năm, nguồn kinh phí đầu tư cho đào tạo và nghiên cứu chuyên sâu vẫn còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành – Trưởng khoa, Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Ảnh: NVCC
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành bày tỏ: “Nếu các mục tiêu của Quyết định 1002/QĐ-TTg được hiện thực hóa sẽ tạo lực đẩy mạnh mẽ cho hệ sinh thái khoa học và công nghệ sinh học tại Việt Nam. Trong đó, mục tiêu đến năm 2030 đào tạo 5.000 người tốt nghiệp mỗi năm từ các chương trình chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh với ít nhất 20% đạt trình độ kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho sự phát triển của ngành.
Trước hết, nguồn nhân lực chất lượng cao này sẽ đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành công nghiệp công nghệ cao, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tiếp đó, đội ngũ này sẽ đóng vai trò nòng cốt trong nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp công nghệ sinh học tiên tiến, như công nghệ gene, trí tuệ nhân tạo trong y học, hay phát triển sản phẩm sinh học thân thiện với môi trường.
Ngoài ra, sự gia tăng số lượng nhân lực trình độ cao sẽ từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm công nghệ sinh học của khu vực, giúp nước ta trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các tập đoàn công nghệ sinh học, y sinh quốc tế, mở ra nhiều cơ hội hợp tác và chuyển giao công nghệ.
Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Ngọc Hà - Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang bày tỏ: “Mặc dù nhóm ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh đã hình thành từ lâu, nhưng phát triển chưa mạnh mẽ, phần lớn do thiếu định hướng rõ ràng và chưa có sự thúc đẩy đồng bộ từ chính sách, đầu tư đến nguồn lực.
Về phía nhà trường, trong nhiều năm qua, trường vẫn duy trì hoạt động giảng dạy ngành công nghệ sinh học. Tuy nhiên, ngành học này vẫn chưa thu hút được nhiều sinh viên theo học. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ lo ngại của người học về cơ hội việc làm sau tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, đội ngũ nhân lực và điều kiện cơ sở vật chất nhà trường chưa đủ mạnh để phát triển ngành học đúng tầm. Dù đã có sự đầu tư trang thiết bị cơ bản cho ngành công nghệ sinh học, nhưng chỉ đáp ứng nhu cầu giảng dạy đơn giản, chưa đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu chuyên sâu mang tính ứng dụng cao như công nghệ sinh học nông nghiệp hay sinh học phân tử.
Ngoài ra, ngành công nghệ sinh học hiện vẫn chưa được xã hội và doanh nghiệp quan tâm đúng mức. Nếu có sự vào cuộc mạnh mẽ từ nhà nước và các đơn vị tuyển dụng, đặc biệt là trong bối cảnh quốc gia cần nguồn nhân lực cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, y học hiện đại hay công nghiệp thực phẩm, ngành học này sẽ thu hút được sự quan tâm nhiều hơn từ người học và xã hội.
Trong chiến lược phát triển đến năm 2035, Trường Đại học Tiền Giang xác định công nghệ sinh học là ngành ưu tiên, gắn với định hướng phục vụ nông nghiệp công nghệ cao, lĩnh vực có tiềm năng lớn tại địa phương. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả mục tiêu này, cần có thêm nguồn lực đầu tư cho trang thiết bị chuyên sâu, nhằm tạo điều kiện để sinh viên được tiếp cận thực tiễn và nghiên cứu sâu về công nghệ sinh học ứng dụng”.
Cũng theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Ngọc Hà, hiện nay, nếu các trường đại học với quy mô nhỏ phải tự lực hoàn toàn trong đào tạo ngành công nghệ sinh học sẽ rất khó khăn. Do đó, cần có sự vào cuộc của cơ quan quản lý với chiến lược hỗ trợ rõ ràng, có kế hoạch đầu tư cụ thể cho cơ sở đào tạo đang triển khai ngành học này.
Bên cạnh đầu tư về cơ sở vật chất, cần có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia, giảng viên trình độ cao từ nước ngoài, để tham gia giảng dạy và xây dựng lực lượng nòng cốt ban đầu.
Ngoài ra, việc cử sinh viên và giảng viên đi đào tạo ở nước ngoài cũng cần được đẩy mạnh nhằm tiếp cận trình độ tiên tiến và tăng cường năng lực cho hệ thống đào tạo trong nước.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Võ Ngọc Hà - Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang. Ảnh: website nhà trường
Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Võ Văn Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn Lang đánh giá, công nghệ sinh học là ngành mũi nhọn thế kỷ 21, góp phần phát triển kinh tế xanh, bảo đảm an ninh lương thực, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Nghị quyết 36-NQ/TW về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới cũng khẳng định: phát triển công nghệ sinh học là xu thế của thế giới; là động lực quan trọng để thực hiện quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân. Và tầm nhìn đến năm 2045, công nghiệp sinh học đóng góp 10 - 15% vào GDP.
Tuy nhiên, dù được xác định là ngành mũi nhọn, công tác phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học và y sinh những năm qua vẫn gặp nhiều khó khăn.
Về khách quan, lĩnh vực này đòi hỏi hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại phục vụ nghiên cứu chuyên sâu. Song, chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn chế, chưa đủ tạo cú hích cho sự phát triển. Bên cạnh đó, cơ hội nghề nghiệp chưa rộng mở, hợp tác quốc tế còn ít, chương trình giáo dục phổ thông chưa thực sự khơi gợi đam mê đối với môn Sinh học.
Về chủ quan, đội ngũ giảng viên và chuyên gia đầu ngành còn thiếu; sinh viên ít mặn mà do đặc thù ngành yêu cầu sự tỉ mỉ, đam mê và làm việc nhiều trong phòng thí nghiệm. Ngoài ra, số trường đào tạo kỹ sư công nghệ sinh học còn ít, trong khi người học thiếu thông tin định hướng rõ ràng về lộ trình nghề nghiệp.
Theo Tiến sĩ Võ Văn Tuấn: “Tại Việt Nam, ngành công nghệ sinh học đang rất “khát” nhân lực. Đặc biệt, từ khi Nghị quyết 36/NQ-TW ra đời, nhu cầu nguồn nhân lực lĩnh vực này càng gia tăng và cơ sở đào tạo cũng quan tâm hơn đến chất lượng của chương trình đào tạo các ngành liên quan.
Theo Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục, đến năm 2025, Việt Nam cần ít nhất 35.000 lao động chuyên sâu trong lĩnh vực công nghệ sinh học; trong khi mỗi năm trường đại học đào tạo ngành sinh học và công nghệ sinh học chỉ cung cấp cho xã hội khoảng 4.000 lao động (bao gồm cả cử nhân và kỹ sư).
Mục tiêu của Chính phủ đến năm 2030 số lượng người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Nếu đạt được mục tiêu đề ra, đóng góp của ngành công nghệ sinh học vào GDP có thể chạm mốc 15% vào năm 2045 như kỳ vọng tại Nghị quyết 36-NQ/TW.

Tiến sĩ Võ Văn Tuấn - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn Lang. Ảnh: website nhà trường
Giải pháp cấp thiết của cơ sở đào tạo để đạt mục tiêu đề ra
Theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn Lang, để hiện thực hóa mục tiêu đề ra trong Quyết định số 1002/QĐ-TTg, trước hết, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên và nhân viên phục vụ đào tạo phải thực sự giỏi chuyên môn, tâm huyết với nghề, sẵn sàng đồng hành cùng người học trong hành trình chinh phục tri thức mới. Cùng với đó, nhà trường cần đầu tư mạnh vào trang thiết bị, máy móc phục vụ đào tạo và nghiên cứu chuyên sâu, đảm bảo phục vụ tốt công tác giảng dạy và nghiên cứu.
Cách tiếp cận đào tạo cũng cần được đổi mới theo hướng lấy người học làm trung tâm, hướng đến việc hình thành những cá nhân có năng lực chuyên môn vững vàng để đào tạo chuyên sâu lên bậc cao hơn. Mỗi nhân lực được đào tạo ra không chỉ là một lao động chất lượng cao, mà còn là nguồn tạo ra sản phẩm sinh học (từ quy trình sản xuất, điều trị, đến sinh phẩm phục vụ nông nghiệp, y học, môi trường…).
Song song đó, cần thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ giảng viên. Ngoài ra, cơ sở đào tạo cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế và trao đổi công nghệ nhằm tiếp cận những tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực công nghệ sinh học, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu.
Để thu hút người học vào nhóm ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh, Tiến sĩ Võ Văn Tuấn đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các trường trung học phổ thông cần thường xuyên chuyển tải tinh thần Nghị quyết 36-NQ/TW và Quyết định 1002/QĐ-TTg đến đội ngũ giáo viên và học sinh. Mục tiêu nhằm giúp giáo viên và học sinh nhận thức rõ vai trò, giá trị của lĩnh vực sinh học, từ đó khơi dậy tình yêu với môn Sinh học và các ngành khoa học tự nhiên nói chung, giúp bồi dưỡng, phát hiện nhân tài từ sớm.
Ở bậc đại học, cần có chính sách học bổng, ưu đãi học phí cho sinh viên các ngành học liên quan lĩnh vực này. Đặc biệt, ở bậc sau đại học, cơ quan quản lý cần có những chính sách ưu tiên, ưu đãi dành cho học viên nghiên cứu chuyên sâu ngành sinh học và công nghệ sinh học, y sinh. Bởi đây là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi người học dành nhiều thời gian làm việc trong phòng thí nghiệm, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và sinh hoạt cá nhân.

Sinh viên ngành Công nghệ Sinh học Y dược, Trường Đại học Văn Lang thực hành thí nghiệm. Ảnh: website nhà trường
Trong khi đó, Trưởng khoa, Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 cho rằng, cơ sở giáo dục đại học là lực lượng tiên phong, đóng vai trò trung tâm trong việc triển khai thành công Quyết định 1002/QĐ-TTg. Để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, cần đổi mới căn bản và toàn diện, từ thiết kế chương trình đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên, nâng cấp cơ sở vật chất đến xây dựng mô hình liên kết giữa đào tạo – nghiên cứu – ứng dụng trong thực tiễn.
Cơ sở đào tạo, đặc biệt là những đơn vị đào tạo chuyên ngành cần tái cấu trúc chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn sản xuất, đầu tư mạnh vào hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, đồng thời thúc đẩy mô hình hợp tác giữa nhà trường – doanh nghiệp – viện nghiên cứu. Đây là 4 trụ cột then chốt để kiến tạo hệ sinh thái đào tạo nhân lực công nghệ sinh học một cách bền vững và hiệu quả.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thành cho biết: “Để đạt được mục tiêu như Chính phủ đề ra, hiện nay, khoa Sinh học của trường đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Chương trình đào tạo ngành công nghệ sinh học, sư phạm sinh học được tái cấu trúc theo hướng tiếp cận chuẩn đầu ra quốc tế.
Bên cạnh đó, quá trình đào tạo gắn chặt với thực tiễn thông qua các đợt thực tập, trải nghiệm nghề nghiệp và đề tài nghiên cứu sinh viên tại doanh nghiệp, viện nghiên cứu. Cùng với đó, nhà trường phát triển các phòng thí nghiệm trọng điểm, tăng cường đầu tư thiết bị nghiên cứu hiện đại; xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh do giảng viên chủ trì, thu hút sinh viên tham gia nghiên cứu từ sớm.
Các hoạt động ngoại khóa, hội thảo khoa học, chương trình hợp tác quốc tế được tổ chức thường xuyên. Trường cũng chú trọng phát triển các câu lạc bộ học thuật nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ ươm tạo và thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ.
Bên cạnh đó, khoa tích cực tham gia mạng lưới hợp tác trong và ngoài nước nhằm tiếp cận công nghệ tiên tiến, mô hình đào tạo hiệu quả, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp với yêu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Chúng tôi tin rằng, nếu được đầu tư đúng hướng và có chính sách hỗ trợ phù hợp từ nhà nước, tổ chức xã hội, cơ sở giáo dục đại học hoàn toàn có thể đảm nhận vai trò nòng cốt trong việc hiện thực hóa mục tiêu đào tạo chuyên sâu 5.000 nhân lực về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh mỗi năm vào năm 2030”.