Trường học 2 trong 1: Cần giải pháp căn cơ, hiệu quả

Chuyên gia trao đổi về việc xây dựng mô hình trường THPT kỹ thuật hoặc trường THPT có những lớp học chương trình GD phổ thông đồng thời có những lớp học nghề...

Học sinh Trường THPT Phú Bài tham quan nhà máy xử lý rác Phú Sơn - Hương Thủy, TP Huế. Ảnh: NTCC

Học sinh Trường THPT Phú Bài tham quan nhà máy xử lý rác Phú Sơn - Hương Thủy, TP Huế. Ảnh: NTCC

“Nghiên cứu xây dựng mô hình trường THPT kỹ thuật hoặc trường THPT có những lớp học chương trình giáo dục phổ thông đồng thời có những lớp học nghề” là một trong những nhiệm vụ Bộ GD&ĐT đưa ra trong Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ông Lê Văn Hòa - Giám đốc Trung tâm GDTX - Tin học, Ngoại ngữ tỉnh Quảng Trị: Mục tiêu, sứ mệnh phải gắn với nhu cầu thực tiễn

 Ông Lê Văn Hòa.

Ông Lê Văn Hòa.

Mô hình Trường THPT kỹ thuật được Bộ GD&ĐT triển khai thí điểm tại Quảng Bình, Đồng Tháp, Cần Thơ và Phú Thọ vào năm 2004, với mong muốn thực hiện mục tiêu kép: Giáo dục học sinh vừa có trình độ THPT, vừa có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, góp phần phân luồng học sinh sau THCS.

Chương trình được thiết kế theo cấu trúc 70% là giáo dục phổ thông theo chương trình, sách giáo khoa chuẩn và 30% kỹ thuật nghề. Tuy nhiên, mô hình thí điểm biểu hiện một số bất cập, hạn chế. Vì vậy, các địa phương đã chuyển đổi mô hình Trường THPT kỹ thuật sang mô hình trường THPT bình thường. Có mấy nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, nhận thức của người dân về vai trò trường THPT kỹ thuật chưa đúng. Đa số phụ huynh muốn con em được học trường THPT bình thường để thi vào đại học bằng mọi giá. Do đó, các trường THPT kỹ thuật thiếu hấp dẫn đối với xã hội.

Thứ hai, nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho các ngành công nghiệp sản xuất trong giai đoạn đó chưa cao. Các trường THPT kỹ thuật không gắn với doanh nghiệp, thị trường lao động và các mô hình đào tạo nghề ở bậc cao hơn, nên không tạo được niềm tin với người học.

Thứ ba, đầu tư cho đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu của mô hình trường THPT kỹ thuật, dẫn đến chất lượng dạy học không đáp ứng mục tiêu đề ra như kỳ vọng.

Thứ tư, về cơ bản, hệ thống trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, các trường trung cấp, cao đẳng nghề đã thực hiện sứ mệnh giáo dục cho học sinh vừa có trình độ THPT, vừa có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, góp phần phân luồng học sinh sau THCS.

Mô hình nào ra đời, muốn tồn tại và phát triển, thì mục tiêu và sứ mệnh của nó phải gắn với nhu cầu thực tiễn. Từ những nguyên nhân trên, để trả lời câu hỏi mô hình trường THPT kỹ thuật có cần thiết, phù hợp trong bối cảnh hiện nay hay không, tôi cho rằng chúng ta cần xem xét đến các yếu tố:

Thứ nhất, mục tiêu và sứ mệnh của trường THPT kỹ thuật trong giai đoạn tới là gì? Đó là hướng đến đối tượng có mong muốn đi vào các ngành nghề kỹ thuật theo nhu cầu của thị trường lao động; thực hiện chủ trương phân luồng học sinh sau THCS, tạo điều kiện cho người học sớm định hướng nghề nghiệp và tham gia vào thị trường lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa đất nước...; khắc phục tình trạng vào đại học bằng mọi giá.

Thứ hai, nhu cầu thực tế của học sinh hiện nay về tham gia học tập tại trường THPT kỹ thuật có cao hay không?

Thứ ba, đội ngũ, giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị đã sẵn sàng chưa? Bài học từ bất cập lâu nay của hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên đó là đội ngũ giáo viên dạy nghề có năng lực hạn chế, điều kiện thiết bị thực hành, thí nghệm cũng lạc hậu so với tốc độ phát triển về khoa học công nghệ dẫn đến lãng phí lớn cho xã hội.

Nhân vấn đề này, xin góp ý thêm: Để hướng đến mục tiêu đào tạo ra những học sinh giỏi về kỹ thuật, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, Nhà nước nên đầu tư thêm hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, phục vụ nghiên cứu cho học sinh các trường THPT chuyên.

Cùng với đó, tập trung sắp xếp lại hệ thống các trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên, trường trung cấp nghề theo hướng vừa dạy kiến thức phổ thông vừa dạy kỹ thuật, đi đôi với đầu tư cho đội ngũ và cơ sở vật chất, thiết bị, công nghệ.

Trong đó, cốt lõi là đội ngũ, làm sao để giáo viên dạy nghề phải giỏi cả lý thuyết và thực hành, đào tạo học sinh ra trường phải làm việc được ngay. Cần đầu tư thiết bị và công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu đào tạo. Hoặc có thể tổ chức dạy kiến thức THPT ngay trong các trường trung cấp nghề để tận dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.

Cũng cần xây dựng lại chương trình giáo dục cấp THPT hệ giáo dục thường xuyên theo hướng linh hoạt, xoay quanh các kiến thức phục vụ cho định hướng nghề nghiệp của học sinh, giảm tối đa kiến thức hàn lâm. Việc xây dựng lại chương trình giáo dục cấp THPT hệ giáo dục thường xuyên không khó, vì Chương trình GDPT 2018 có độ mở, tích hợp và linh hoạt khá cao.

PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội): Mô hình rất cần thiết và phù hợp trong bối cảnh hiện nay

 PGS.TS Trần Thành Nam.

PGS.TS Trần Thành Nam.

Tôi cho rằng mô hình trường THPT kỹ thuật hoặc THPT kết hợp chương trình giáo dục phổ thông và lớp học nghề rất cần thiết và phù hợp trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.

Lý do, nền kinh tế đang chuyển từ mô hình sản xuất quy mô lớn, giá trị thấp sang quy mô nhỏ, giá trị cao, với trọng tâm kinh doanh ý tưởng đổi mới sáng tạo. Nhà trường phải là nơi chuẩn bị sớm cho học sinh những năng lực để thích ứng với xu hướng này, như trang bị năng lực tư duy phân tích vấn đề bậc cao, khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, hiệu quả.

Hiện nay, chúng ta phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng trong phân luồng học sinh sau THCS. Tỷ lệ học sinh hiểu, lựa chọn học nghề thấp, chỉ khoảng 10 - 15% tại một số thành phố lớn. Khi đó, mô hình này sẽ giúp học sinh được hướng nghiệp, trải nghiệm nghề nghiệp sớm; tiếp cận song song với chương trình giáo dục phổ thông.

Trên thực tế, sự phát triển công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đòi hỏi lực lượng lao động có kỹ năng nghề nghiệp thực tiễn, kết hợp với kiến thức nền tảng THPT, trang bị các kỹ năng bậc cao để tự học suốt đời, tiệm cận với trình độ các nước phát triển như G20 (Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới).

Vì vậy, trên thế giới đã xây dựng, phát triển nhiều mô hình hệ sinh thái kết nối giữa trường phổ thông, đại học và các doanh nghiệp để chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực đa năng.

Câu hỏi đặt ra là nên thiết kế mô hình theo hướng nào, nhiều “phổ thông” hay nhiều “kỹ thuật”, hướng nghiệp hay dạy nghề? Tôi cho rằng, xây dựng nội dung chương trình đào tạo không thể cứng nhắc chia % trọng số cho phổ thông hay kỹ thuật, hướng nghiệp hay dạy nghề, mà cần dựa trên các tiêu chuẩn năng lực, phẩm chất chân dung người lao động trong thế kỷ 21.

Giáo dục phổ thông không chỉ trang bị các năng lực đọc, viết, tính toán thành thạo với giáo trình giấy truyền thống và không gian dạy học cố định trong giảng đường, thời khóa biểu cố định với phương pháp sư phạm hầu hết là thuyết giảng. Giáo dục phổ thông hiện nay phải xây dựng cho người học năng lực SMART (Self-directed, Motivated, Adaptive, Resource enriched, Technology), có nghĩa là “tự định hướng, tạo động lực, thích ứng, giàu tài nguyên, dựa trên công nghệ”.

Vì thế, mô hình này không thể chỉ quan tâm đến nội dung dạy cái gì mà trọng tâm đến phương pháp (dạy thế nào) và kiến tạo môi trường giáo dục ra sao? Chúng ta có thể định hướng xây dựng theo mô hình WISER (thông minh hơn); trong đó nhấn mạnh tới 3 yếu tố:

Định hướng công việc trong tương lai (Work of the future): Định hình chương trình đào tạo dựa trên các yêu cầu của thị trường lao động trong tương lai. Ví dụ, định hình theo chiến lược giáo dục nghề nghiệp đến 2030, tầm nhìn 2045; từ đó đưa các kỹ năng của tương lai vào chương trình đào tạo (đơn cử như tư duy thiết kế, tài chính, lập kế hoạch kinh doanh và quản lý rủi ro, chuyển giao và đóng gói sản phẩm), phù hợp với thị trường lao động trong 10 - 20 năm tới.

Học tập thực tế (Real-world learning): Áp dụng các phương pháp như học theo dự án (STEM/ STEAM), lớp học đảo ngược, hoặc mô hình learnning by doing - học qua làm, để học sinh thực hành dựa trên bài toán thực tế từ doanh nghiệp. Tất cả mục tiêu giáo dục, phương pháp giảng dạy và đánh giá được liên kết chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống.

Hình thành hệ sinh thái giáo dục (Ecosystem perspective): Trường THPT kết nối chặt chẽ với trường đại học, các doanh nghiệp để tạo môi trường học tập tích hợp, nơi học sinh có thể tham gia các vườn ươm doanh nghiệp hoặc dự án khởi nghiệp ngay từ cấp THPT.

Có thể nói, mô hình mới cần được thử nghiệm để đảm bảo sự cân bằng giữa giáo dục văn hóa, giáo dục kỹ thuật nghề, tích hợp cả giáo dục hướng nghiệp và trải nghiệm nghề nghiệp chuyên sâu; qua đó thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp thông qua đổi mới phương pháp học tập dựa trên thực tiễn với các bài toán được đặt ra bởi doanh nghiệp, thị trường lao động.

Những mô hình mới cần tư duy và cách làm đột phá để đem lại hiệu quả. Điểm quan trọng nhất trong triển khai mô hình này là sự kết nối chặt chẽ giữa trường phổ thông, đại học/viện nghiên cứu và nền công nghiệp, ứng dụng công nghệ hiện đại; tập trung phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp. Sự tham gia của doanh nghiệp trong “đặt hàng” đào tạo, hợp tác với các trường đại học đổi mới sáng tạo sẽ đảm bảo hiệu quả đào tạo, sức hút của mô hình đối với xã hội.

Ông Trịnh Văn Ngoãn - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Vĩnh Long: Nên thiết kế theo hướng lấy giáo dục nghề nghiệp là chính

 Ông Trịnh Văn Ngoãn.

Ông Trịnh Văn Ngoãn.

Theo tôi, nghiên cứu xây dựng “Mô hình trường THPT kỹ thuật hoặc trường THPT có những lớp học chương trình giáo dục phổ thông đồng thời có những lớp học nghề” phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Với mô hình này, học sinh THPT có điều kiện tiếp cận các chương trình nghề ngay tại nơi mình học.

Điều này sẽ góp phần khắc phục những bất cập do mạng lưới trường nghề hiện nay còn ít, bố trí phân tán, quy mô tuyển sinh và đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu người học. Khi mô hình được triển khai với lộ trình phù hợp và hiệu quả góp phần hiện thực hóa mục tiêu nâng cao năng suất lao động của người Việt Nam.

Tuy nhiên, để triển khai thành công mô hình này, Bộ GD&ĐT cùng các Bộ, ngành liên quan cần hoàn thiện thể chế, chuẩn bị nhân lực, cơ sở vật chất; đặc biệt dự báo chính xác nguồn nhân lực trong trung hạn, dài hạn để xây dựng chương trình đào tạo nghề, hoặc đào tạo kỹ thuật phù hợp với xu hướng thời đại. Tôi tin rằng, khi chúng ta có cơ chế, chính sách phù hợp; chương trình đào tạo chất lượng; điều kiện học tập tốt; việc làm và thu nhập tốt sau khi ra trường thì xã hội sẽ tích cực đón nhận.

Theo quan điểm của tôi, mô hình trường này nên thiết kế theo hướng lấy giáo dục nghề nghiệp là chính (có thể thiết kế theo “tín chỉ”), kiến thức văn hóa trang bị vừa sức để tránh quá tải cho người học. Chương trình học nghề cần gắn với thực tiễn sản xuất, kinh doanh, lấy thực hành nghề nghiệp làm trọng để học sinh hoàn thành chương trình có thể tiếp cận công việc ngay (không phải qua đào tạo lại).

Hải Bình (ghi)

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/truong-hoc-2-trong-1-can-giai-phap-can-co-hieu-qua-post733486.html