Tự chủ đại học: Luẩn quẩn vì thiếu cơ chế pháp lý, thiếu tiền, thiếu người
Để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 71, thúc đẩy tự chủ đại học, nhiều ý kiến cho rằng cần hoàn thiện cơ chế pháp lý, mở rộng nguồn lực tài chính và có chính sách thu hút nhân lực bền vững.
Sáng 31-10, tại TP.HCM, Vụ địa phương 3, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương và Trường ĐH Sư phạm TP.HCM tổ chức Tọa đàm “Giáo dục Đại học - kiến tạo tự chủ toàn diện và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Nghị quyết 71-NQTW”.
Tại đây, nhiều ý kiến cho rằng điểm nghẽn lớn nhất hiện nay của giáo dục đại học là thiếu cơ chế pháp lý và phân bổ chưa hợp lý nguồn lực tài chính.
Tài chính khiến tự chủ đại học rơi vào luẩn quẩn
PGS. TS. Đàm Sao Mai, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM, cho biết bài toán then chốt hiện nay của giáo dục đại học là thiếu hụt và phân bổ chưa hiệu quả nguồn lực tài chính. Bức tranh tài chính của giáo dục đại học công lập hiện dựa trên bốn nguồn chính, trong đó ngân sách Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Tuy nhiên, dù luật quy định dành tối thiểu 20% tổng chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo, giai đoạn 2013-2023 mức chi thực tế chỉ đạt trung bình 17,8%. Riêng phần dành cho giáo dục đại học chỉ tương đương 0,18% GDP, quá thấp so với nhu cầu phát triển.
Theo PGS Mai, nguồn thu học phí – nguồn lực quan trọng thứ hai – hiện cũng không đủ bù đắp chi phí đào tạo thực tế vì đang bị khống chế bởi trần học phí và giới hạn khả năng chi trả của người học.
Trong khi đó, nguồn lực từ doanh nghiệp và xã hội còn rất hạn chế do thiếu chính sách ưu đãi thuế và cơ chế hợp tác công – tư rõ ràng. Điều này dẫn đến vòng luẩn quẩn: cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, thư viện không được đầu tư, chất lượng khó nâng cao; chất lượng chưa vượt trội lại khó thu hút đầu tư xã hội.
Còn đại diện Trường ĐH Nông lâm TP.HCM, cho biết thời gian qua, trường đã triển khai nhiều giải pháp linh hoạt trong tuyển dụng và chính sách đãi ngộ để thu hút chuyên gia, nhà khoa học giỏi. Cụ thể, đối với giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên, trường áp dụng cơ chế xét tuyển trực tiếp, không phải thi tuyển vòng 1, nhằm rút ngắn thời gian nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ quy định.

Đại biểu chia sẻ ý kiến tại tọa đàm. Ảnh: P.ANH
Về tài chính, trường bổ sung cơ chế chi trả thuê chuyên gia theo mức giá thực tế trên thị trường, đồng thời đang xây dựng chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, gồm trợ cấp thu hút ban đầu tương đương 150% mức lương theo hệ số trong 5 năm; hỗ trợ phát triển học thuật và tạo điều kiện ổn định chỗ ở đối với chuyên gia nước ngoài.
Cùng với đó, trường cũng nghiên cứu xây dựng quy chế phụ cấp ưu đãi nghề theo hướng mở rộng đối tượng và tăng mức hưởng: 25% cho giảng viên và viên chức, 40% cho giảng viên khoa sư phạm, 45% cho giảng viên giảng dạy các môn lý luận chính trị.
Tuy vậy, cơ chế tự chủ tài chính và yêu cầu duy trì mức học phí thấp để hỗ trợ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn khiến một số chính sách thu hút chưa thật sự cạnh tranh.
Ở góc độ cơ sở đào tạo giáo viên, GS.TS Huỳnh Văn Sơn, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho rằng cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ nhà giáo hiện nay tuy đã có điều chỉnh nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Việc tuyển dụng giáo viên còn chậm, quy trình thi tuyển tập trung kéo dài, chỉ tiêu biên chế phân bổ chưa kịp thời, thiếu linh hoạt khiến nhiều địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa không tuyển đủ giáo viên dù rất thiếu.
Ngược lại, một số đô thị lớn lại thừa cục bộ nhưng thiếu cơ chế điều phối hợp lý. Tâm lý nghề nghiệp và thu nhập thấp cũng khiến sinh viên sư phạm không còn mặn mà, nhất là với các môn đặc thù như tin học, công nghệ, âm nhạc, mĩ thuật.
Số liệu cho thấy các vùng khó khăn có tỉ lệ tuyển dụng hoàn thành rất thấp; đồng thời tỉ lệ giáo viên nghỉ việc ngày càng tăng, nhiều người chuyển nghề do thu nhập không đảm bảo, áp lực cao. Việc không tuyển mới kịp thời tạo ra vòng lặp thiếu giáo viên kéo dài.
Về chính sách phụ cấp ưu đãi, dù đã có quy định, việc triển khai ở nhiều nơi còn chậm hoặc không đủ nguồn chi, đặc biệt tại huyện nghèo, vùng khó khăn. Trong khi đó, chính những nơi cần ưu đãi nhất lại khó thực thi, tạo khoảng cách đãi ngộ giữa các vùng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự yên tâm công tác và động lực nghề nghiệp của giáo viên.
Từ các phân tích thực tế tại các cơ sở đào tạo, nhiều đại biểu cho rằng cần hoàn thiện khung pháp lý về tự chủ đại học, đặc biệt là tự chủ tài chính.

GS.TS Huỳnh Văn Sơn, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, cho rằng cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ nhà giáo hiện nay tuy đã có điều chỉnh nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế.
Cần đãi ngộ và cơ chế linh hoạt
PGS. TS. Đàm Sao Mai, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM, nhấn mạnh cần hoàn thiện khung pháp lý về tự chủ tài chính và sớm ban hành cơ chế vận hành quỹ tín thác giáo dục để huy động vốn cộng đồng.
Đồng thời, ngân sách Nhà nước phải chuyển sang cơ chế đặt hàng và giao nhiệm vụ dựa trên kết quả đầu ra, thay vì cấp phát dàn trải. Các chỉ số kết quả đầu ra cần được lượng hóa rõ ràng, gồm: tỉ lệ sinh viên có việc làm, kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, thứ hạng quốc tế…
Ở cấp độ cơ sở đào tạo, bà Mai cho rằng mỗi trường phải chuyên nghiệp hóa công tác huy động nguồn lực, phát triển nghiên cứu ứng dụng, mở rộng hợp tác trường – doanh nghiệp, khai thác mạng lưới cựu sinh viên và đảm bảo minh bạch tài chính. Cần phát triển mô hình thực tập gắn doanh nghiệp, khóa luận giải quyết bài toán thực tế và các phòng thí nghiệm dùng chung.

Một buổi thực hành nghiên cứu tại Trường ĐH Công nghiệp TP.HCM. Ảnh: ICC
Nêu thực tế tại Trường ĐH Quốc tế, ĐH Quốc gia TP.HCM, PGS.TS Nguyễn Thị Hiệp, cho biết trường được xây dựng với sứ mệnh trở thành trường ĐH công lập đầu tiên giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, tạo nền tảng hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây là lợi thế lớn giúp trường phát triển quan hệ hợp tác với nhiều đối tác nước ngoài.
Tuy nhiên, thực tế vận hành vẫn còn nhiều hạn chế. Việc thu hút các giáo sư, nhà khoa học nước ngoài gặp khó do quy định về hợp đồng lao động, thủ tục cấp phép còn phức tạp. Ngoài ra, cần có chính sách học bổng, hỗ trợ học phí phù hợp để giữ chân học viên cao học, nghiên cứu sinh – lực lượng nòng cốt cho phát triển nghiên cứu. “Nếu không có cơ chế học bổng hấp dẫn, người học giỏi sẽ ra nước ngoài và khó quay lại”, bà nhấn mạnh.
Từ đó, PGS Hiệp đề nghị khi xác định ngành mũi nhọn, ngoài trí tuệ nhân tạo và các lĩnh vực công nghệ, cần chú trọng ngành nông nghiệp chất lượng cao, vì đây vẫn là nền tảng chiến lược của Việt Nam trong tương lai.
Mô hình liên kết nhà trường – doanh nghiệp – nhà nước chưa như kỳ vọng
Trong khi đó, PGS.TS Trần Lê Quan, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM), cho rằng mô hình liên kết nhà trường – doanh nghiệp – nhà nước (3N) dù được thúc đẩy hơn 10 năm qua nhưng hiệu quả chưa như kỳ vọng.
Chỉ khoảng 15% chương trình có sự tham gia thiết kế của doanh nghiệp; các dự án nghiên cứu chung rất ít vì chưa có cơ chế chia sẻ lợi ích ổn định; đặt hàng đào tạo từ Nhà nước còn hạn chế. “Đổi mới chương trình không chỉ là chỉnh môn học mà cần thay đổi cách tiếp cận: đào tạo năng lực thực tiễn, số hóa, tư duy sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp” - PGS.TS Trần Lê Quan nêu.
PGS.TS Trần Lê Quan đề xuất ban hành một nghị định khung về mô hình 3N, trong đó Nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược và ưu đãi thuế, trường đại học đổi mới chương trình theo hướng dự án thực tế, doanh nghiệp tham gia đồng thiết kế, đồng giảng dạy và đồng thương mại hóa kết quả nghiên cứu. “Doanh nghiệp phải trở thành phòng thí nghiệm thực tế của sinh viên”.
Để nâng cao hiệu quả tuyển dụng và đãi ngộ theo tinh thần Nghị quyết 71/2025, GS.TS Huỳnh Văn Sơn, đề xuất cần rút ngắn và linh hoạt hóa quy trình tuyển dụng giáo viên, phân cấp mạnh cho địa phương và cơ sở giáo dục, tăng xét tuyển ở vùng khó khăn và ứng dụng công nghệ để giảm thủ tục.
Ông đề nghị chuẩn hóa và nâng phụ cấp ưu đãi, đảm bảo tối thiểu 50% lương cơ sở cho giáo viên vùng khó, kèm hỗ trợ nhà ở và điều kiện sinh hoạt. Tuyển dụng phải gắn với bồi dưỡng sau tuyển, chú trọng năng lực sư phạm, chuyển đổi số và kỹ năng mềm; đồng thời tăng liên kết giữa địa phương và các trường sư phạm để đào tạo theo nhu cầu.
Cùng đó, cần xây dựng hệ thống quản lý và tuyển dụng giáo viên trực tuyến, chuẩn hóa hồ sơ điện tử, và đẩy mạnh truyền thông, tôn vinh nhà giáo để tạo động lực nghề nghiệp. Các giải pháp phải triển khai đồng bộ để giữ chân và thu hút người giỏi gắn bó lâu dài với giáo dục.
Hoàn thiện hành lang pháp lý để đại học tự chủ thực chất
Ghi nhận các ý kiến góp ý tại tọa đàm, ông Doãn Hồng Hà, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Đảng ủy Bộ GD&ĐT, cho biết Bộ đang rà soát, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở giáo dục ĐH công lập, giảm đầu mối, làm rõ chức năng và trách nhiệm chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả quản trị. Bộ cũng sẽ triển khai các đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực mũi nhọn như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, y sinh và năng lượng, đồng thời hoàn thiện hành lang pháp lý, tháo gỡ vướng mắc về cơ chế và tài chính để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Ông Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương cũng đề nghị sớm thể chế hóa các đề xuất về tự chủ ĐH, cho phép các trường có năng lực được thí điểm cơ chế đặc thù để tạo đột phá. Ông nhấn mạnh các trường phải nâng cao trách nhiệm giải trình, quản trị minh bạch và chủ động huy động nguồn lực. Đồng thời kêu gọi cộng đồng doanh nghiệp, cựu sinh viên và xã hội đồng hành, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai.












