Từ dự thảo văn kiện Đại hội XIV đến khát vọng vươn mình của dân tộc
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đang được lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, thể hiện tinh thần dân chủ, cầu thị, lắng nghe ý kiến của toàn xã hội để hoàn thiện đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Văn hóa tạo ra môi trường chính sách và hệ giá trị thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ảnh: NG.HÀ
Trong đó, nội dung về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam được đặt ở vị trí trung tâm, như một trụ cột chiến lược, một nguồn lực nội sinh và hệ điều tiết quan trọng của tiến trình phát triển bền vững.
Đặt văn hóa vào vị trí trung tâm
Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khát vọng xây dựng Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc được đặt trong tầm nhìn dài hạn đến giữa thế kỷ XXI, văn hóa một lần nữa được Đảng ta khẳng định với vị thế xứng đáng - không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà là nguồn lực nội sinh, động lực trực tiếp và hệ điều tiết phát triển. Tư duy phát triển mới của Đảng trong dự thảo văn kiện Đại hội XIV thể hiện rõ bước chuyển từ coi văn hóa như một lĩnh vực xã hội đơn thuần sang nhận thức văn hóa như một trụ cột chiến lược, một sức mạnh mềm quốc gia, giữ vai trò dẫn dắt và định hình tương lai phát triển.
Đây là sự tiếp nối tinh thần nhất quán từ các Đại hội trước, nhất là những luận điểm tư tưởng quan trọng trong các nhiệm kỳ gần đây, đồng thời là bước nâng tầm tư duy. Văn hóa được nhìn nhận không chỉ trong phạm vi bảo tồn, giữ gìn, mà còn trong năng lực kiến tạo giá trị mới, truyền cảm hứng đổi mới sáng tạo, nuôi dưỡng năng lực cạnh tranh quốc gia, hình thành bản sắc riêng trong dòng chảy toàn cầu hóa và chuyển đổi số. Như lịch sử đã chứng minh, mỗi bước thăng hoa của dân tộc đều khởi nguồn từ sức mạnh văn hóa - từ tinh thần Đại Việt, hào khí Đông A, phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, đến bản lĩnh “không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ngày nay, sức mạnh ấy cần được chuyển hóa thành động lực để hội nhập sâu rộng, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, khơi dậy ý chí tự lực tự cường, sức sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp của toàn dân. Văn hóa, do đó không chỉ định hình phẩm chất con người Việt Nam thời đại mới mà còn tạo ra môi trường chính sách, thể chế và hệ giá trị thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu tổng quát của Đảng là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, hướng tới một xã hội giàu bản sắc, sáng tạo, nhân văn, hạnh phúc và bền vững.
Trong tiến trình đó, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là trung tâm và là mục tiêu phục vụ cao nhất của mọi chính sách văn hóa. Việc lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân đối với dự thảo văn kiện chính là minh chứng cho tinh thần cầu thị, đồng hành và phát huy trí tuệ tập thể; là cách Đảng khơi dậy sức mạnh đoàn kết, huy động trí tuệ dân tộc để kiến tạo tương lai chung. Khi văn hóa đã trở thành “động lực” và “hệ điều tiết”, thì mỗi cá nhân chính là một “tế bào văn hóa”, mỗi cộng đồng là một “hệ sinh thái văn hóa” và mỗi góp ý, mỗi suy tư kỳ vọng hôm nay sẽ góp phần định hình diện mạo đất nước ngày mai. Đây là bước đi tất yếu để Việt Nam không chỉ mạnh về kinh tế, vững về quốc phòng, mà còn tỏa sáng bằng giá trị tinh thần, bản sắc và sức sáng tạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Xây dựng “không gian văn hóa quốc gia”
Nếu như ở những giai đoạn trước, môi trường văn hóa được nhìn thấy rõ nhất qua đình làng, mái trường, gia đình, cơ quan, đơn vị, thì hôm nay, không gian văn hóa còn trải dài trong thế giới số, nơi mỗi cú “chạm”, mỗi lượt chia sẻ, mỗi luồng thông tin đều có thể lan tỏa giá trị tích cực hoặc tạo ra những xáo trộn vô hình. Dự thảo văn kiện Đại hội XIV nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh từ cộng đồng truyền thống đến nền tảng số hiện đại - một bước chuyển tư duy phù hợp với kỷ nguyên đa nền tảng, đa tương tác và tốc độ lan truyền chưa từng có của thông tin.
Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội. Khi công nghệ mở ra không gian giao tiếp không giới hạn, văn hóa không chỉ cần “bảo tồn” mà phải biết “tỏa sáng”, tạo sức đề kháng, lan tỏa chuẩn mực và giá trị Việt Nam. Đời sống văn hóa không còn bó hẹp trong thiết chế truyền thống mà được mở rộng thành “hệ sinh thái văn hóa số”, nơi Nhà nước kiến tạo nền tảng, cộng đồng kiến tạo nội dung và mỗi cá nhân trở thành một chủ thể văn hóa - có quyền sáng tạo, nhưng cũng có trách nhiệm bảo vệ đạo lý, sự thật, niềm tin xã hội.
Trong bối cảnh cạnh tranh giá trị toàn cầu, sự xâm nhập của lối sống thực dụng, nội dung độc hại, thông tin sai lệch hay những tác động tiêu cực từ giải trí mạng, các nền tảng xuyên biên giới…, thì nhiệm vụ bảo vệ thuần phong mỹ tục, củng cố niềm tin xã hội, nâng cao sức đề kháng văn hóa càng trở nên cấp thiết. Không chỉ quản lý - chúng ta phải nuôi dưỡng năng lực lựa chọn và đề kháng văn hóa trong mỗi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, để văn hóa Việt Nam tồn tại không bằng sự đóng cửa, mà bằng sức hút của giá trị và bản lĩnh nội tại.
Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa trong giai đoạn mới phải bắt đầu từ cộng đồng cơ sở, gia đình, nhà trường (nơi hình thành nhân cách) nhưng cũng phải mở rộng tới hệ sinh thái sáng tạo số, công nghệ AI, không gian mạng, nền tảng truyền thông mới. Chỉ khi văn hóa hiện diện trong từng góc phố, từng không gian công cộng và từng dòng chảy dữ liệu, chúng ta mới có thể kiến tạo một “không gian văn hóa quốc gia” toàn vẹn: Chân - thiện - mỹ trong đời thực; chuẩn mực - trí tuệ - nhân văn trong thế giới số.
Đó chính là trách nhiệm của mỗi cơ quan, mỗi cộng đồng và từng công dân trong giai đoạn mới - khi văn hóa không chỉ là “điểm tựa tinh thần”, mà là lá chắn mềm, là nguồn sáng dẫn đường, bảo vệ những giá trị làm nên bản lĩnh Việt Nam trước mọi biến động của thời đại.
Từ bảo tồn đến kinh tế di sản
Bước sang giai đoạn phát triển mới, khi thế giới cạnh tranh bằng bản sắc và giá trị văn hóa, di sản không còn chỉ là những dấu tích của quá khứ, mà trở thành nguồn lực chiến lược để kiến tạo tương lai. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV khẳng định yêu cầu gắn bảo tồn và phát huy giá trị di sản với phát triển kinh tế di sản - một tư duy rất mới, thể hiện tầm nhìn sâu rộng về sức mạnh mềm và năng lực cạnh tranh của quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, đi đôi với cơ hội là trách nhiệm và thách thức. Không ít địa phương vẫn còn lúng túng giữa bảo tồn và khai thác, giữa tôn trọng tính nguyên bản và nhu cầu du lịch hóa, thương mại hóa. Nếu không có chiến lược bài bản, di sản có thể bị biến dạng, không gian văn hóa bị xâm thực, lễ hội mất thiêng, thậm chí đánh mất tính độc đáo - thứ đã làm nên sức sống hàng thế kỷ của di sản Việt Nam. Vì vậy, tư duy mới phải là bảo tồn để phát triển và phát triển để bảo tồn; đặt cộng đồng làm chủ thể; tăng cường khoa học - công nghệ, số hóa di sản; xây dựng mô hình quản trị hiện đại; huy động nguồn lực công - tư; và quan trọng hơn cả, bảo đảm tính linh thiêng, chiều sâu văn hóa, giá trị nhân văn của từng di sản.
Trong thời đại số, khi công nghệ AI, AR/VR, metaverse mở ra những phương thức mới để tiếp cận và trải nghiệm văn hóa, di sản Việt Nam có cơ hội cất cánh nếu đi đúng hướng. Chúng ta hoàn toàn có thể đưa Đền Hùng, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hoàng thành Thăng Long, Yên Tử, Hội An, Cố đô Huế hay tín ngưỡng thờ Mẫu, nghệ thuật Tuồng, Ca trù… đến với thế giới bằng những mô hình thực tế ảo, phim ảnh, trò chơi điện tử, bảo tàng số, các nền tảng văn hóa trí tuệ nhân tạo. Khi đó, di sản không chỉ nằm trên đất, nằm trong tâm thức, mà còn sống động trên không gian số, lan tỏa trong đời sống toàn cầu.
Di sản vì thế không chỉ nhắc ta nhớ mình là ai, mà còn trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn trở thành ai trong thế kỷ XXI? Giữ một hồn cốt, nhưng khai mở một tương lai sáng tạo.
Bứt phá công nghiệp văn hóa, truyền thông và chuyển đổi số
Nếu thế kỷ XX chứng kiến sức mạnh của những quốc gia đi đầu về công nghiệp nặng, cơ khí và tài nguyên thiên nhiên, thì thế kỷ XXI đang chứng minh một trật tự phát triển mới: Quốc gia trỗi dậy nhờ sức mạnh văn hóa, sáng tạo và truyền thông. Nơi nào biết tạo ra giá trị biểu tượng, sản phẩm văn hóa hấp dẫn, câu chuyện truyền cảm hứng, nơi đó chiếm lĩnh niềm tin, thị trường và tâm trí nhân loại. Dự thảo văn kiện Đại hội XIV đã nhận diện rõ xu thế ấy, đặt nhiệm vụ phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, truyền thông và chuyển đổi số như một trụ cột chiến lược trong chiến lược phát triển quốc gia.
Không chỉ để nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, mà còn để hình thành nền kinh tế dựa trên sáng tạo, tri thức và bản sắc Việt Nam. Từ âm nhạc, điện ảnh, thiết kế, thời trang, game, ẩm thực, du lịch văn hóa đến truyền thông số và xuất bản, mỗi lĩnh vực đều là một “công xưởng giá trị” có thể đóng góp hàng chục tỷ USD nếu được tổ chức bài bản, quản trị hiện đại và dẫn dắt bằng tầm nhìn quốc gia.
Chúng ta đã thấy những tín hiệu khởi sắc đó là những bộ phim hàng trăm tỷ doanh thu, những concert quy mô quốc gia, những trào lưu văn hóa lan tỏa trên mạng xã hội, sự xuất hiện ngày càng nhiều thương hiệu sáng tạo Việt vươn tầm quốc tế. Nhưng để những tín hiệu ấy trở thành dòng chảy chủ đạo, Việt Nam cần hệ sinh thái sáng tạo đầy đủ: Nguồn nhân lực được đào tạo bài bản; trung tâm sáng tạo, studio phim, công xưởng nội dung số; cơ chế bảo hộ bản quyền hiện đại; hệ thống quỹ đầu tư, tín dụng văn hóa; khung pháp lý linh hoạt cho kinh tế sáng tạo và tài sản số.
Trong kỷ nguyên mạng xã hội và trí tuệ nhân tạo, truyền thông không chỉ truyền tải thông tin - mà kiến tạo thực tại, định hướng giá trị, xây dựng thương hiệu quốc gia. Một nền báo chí - truyền thông nhân văn, chuyên nghiệp, hiện đại là yêu cầu sống còn, để nâng cao trí tuệ công chúng, bảo vệ sự thật, lan tỏa điều tử tế, đấu tranh với sai trái; để tiếng nói Việt Nam hiện diện có trách nhiệm và uy tín trên bàn đối thoại quốc tế.
Chuyển đổi số trong văn hóa và truyền thông không chỉ là số hóa kho tư liệu, mà là đổi mới mô hình vận hành, phân phối, trải nghiệm và sáng tạo giá trị. Khi dữ liệu, công nghệ AI, nền tảng nội dung số, thực tế ảo được ứng dụng, văn hóa không bị giới hạn bởi sân khấu, rạp chiếu hay thư viện - mà hiện diện trong từng chiếc điện thoại, từng không gian tương tác, từng dòng dữ liệu. Công dân số trở thành công dân văn hóa, và con người Việt Nam mang bản sắc dân tộc bước vào không gian toàn cầu với sự tự tin, trí tuệ và năng lực cạnh tranh mới.
Thách thức không nhỏ: Nội dung độc hại, tin giả, thương mại hóa nghệ thuật, lệch chuẩn thẩm mỹ, xâm lăng văn hóa, xu hướng “giải trí hóa” tri thức. Nhưng thay vì chỉ “chống” hay “siết”, tầm nhìn mới của Đảng là tạo sinh sức mạnh, khuyến khích cạnh tranh bằng giá trị, sáng tạo, chuẩn mực và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Điều đó đòi hỏi sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, cộng đồng sáng tạo, doanh nghiệp và từng công dân - bởi công nghiệp văn hóa không thể phát triển bằng mệnh lệnh, mà bằng khát vọng sáng tạo và cơ chế giải phóng sức sáng tạo.











