Từ 'hòi Yàng' đến chủ động chọn văn hóa ngoại sinh

Những ai sống trải đời sống thực địa đủ sâu ở Tây Nguyên đều hiểu rằng quá trình tiếp biến văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa nơi đây chính là quá trình giải thiêng và chuyển thiêng lối tư duy hiện thực huyền ảo.

Từ tư duy “hòi Yàng”

Khu vực Tây Nguyên - trên phương diện địa hành chính vùng - trước đây gồm 5 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Từ ngày 1/7/2025, địa hành chính của khu vực Tây Nguyên đã được mở rộng về phía biển, tích hợp thêm một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ như Bình Định (sáp nhập với Gia Lai), Phú Yên (sáp nhập với Đắk Lắk), Bình Thuận (sáp nhập với Đắk Nông và Lâm Đồng), trong khi Kon Tum thì về với Quảng Ngãi.

Trên phương diện địa hành chính là vậy, nhưng ở phương diện địa văn hóa hình như trường ảnh hưởng của văn hóa Tây Nguyên đã đi trước một bước khá dài so với địa hành chính vùng.

Từ thuở xa xưa, địa giới văn hóa của khu vực Tây Nguyên đã lan rộng ra các tỉnh lân cận: Khánh Hòa, Ninh Thuận (Ninh Thuận nay sáp nhập với Khánh Hòa), Bình Phước (Bình Phước nay sáp nhập với Đồng Nai), Quảng Nam (Quảng Nam nay sáp nhập với Đà Nẵng).

Thậm chí, một số vùng miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là TP Huế), Quảng Trị và Quảng Bình (Quảng Bình nay sáp nhập với Quảng Trị) cũng có dấu vết trường ảnh hưởng của văn hóa Tây Nguyên.

Già làng thổi tù và mở đầu nghi thức cúng lúa mới.

Già làng thổi tù và mở đầu nghi thức cúng lúa mới.

Miền sơn nguyên - Tây Nguyên ấy, xen cài bình nguyên và cao nguyên, với địa hình, địa mạo, địa chất phong phú, cùng khí hậu phân chia rạch ròi 2 mùa mưa - khô đã tạo nên một tiết điệu mùa màng rất riêng. Đời sống văn hóa nơi vùng đất này cũng theo đấy mà mang tính chu kỳ đặc trưng Tây Nguyên - chu kỳ vòng đời: đời người, đời cây, đời chiêng...

Thực hành nghi lễ vòng đời, cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên một mặt tạo ra những giao cảm “huyền ảo” giữa con người và tự nhiên - nhân hóa mọi hiện tượng tự nhiên, mặt khác lấy các hiện tượng tự nhiên làm hệ quy chiếu cho con người - con người chỉ là một bộ phận của thế giới tự nhiên. Tư duy ấy - tư duy hiện thực huyền ảo - gần như ôm trọn đời sống văn hóa và đời sống sản xuất của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên.

Mọi thực hành văn hóa ở đây đều là câu trả lời hoặc ẩn chứa câu trả lời cho lối tư duy hòi Yàng (hỏi Yàng) - đấng thiêng có khả năng chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống từng cá nhân, cũng như đời sống của cả cộng đồng - theo quan niệm của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên.

Quan niệm đó phổ biến tới mức trở thành một định thức văn hóa: cứ nhắc đến Tây Nguyên là mặc nhiên thừa nhận những thực hành văn hóa ở đây chỉ có một chức năng xã hội duy nhất để lơh Yàng (cúng Yàng) - thỏa mãn tính thiêng. Thành ra khi chứng kiến những thực hành văn hóa của cộng đồng các dân tộc bản địa Tây Nguyên ít nhiều đã khác xưa, một số nhà folklore Tây Nguyên gay gắt: “Nó là sự lai căng kệch cỡm. Tây Nguyên phải là văn hóa rừng. Yếu tố không gian mới là thứ làm nên nét văn hóa đặc sắc Tây Nguyên”.

“Thang âm phương Tây đã phủ gần như toàn bộ đời sống âm nhạc của cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên. Ngày nay, cái gọi là bản sắc âm nhạc Tây Nguyên thực chất chỉ còn tồn tại trên ngữ nghĩa của từ ngữ. Cồng chiêng, đinh năm, klông pút, trưng, kwoa, goong lur... - những nhạc cụ cổ truyền của các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên, nay đã được cải sửa dựa trên cao độ của những nốt do, re, mi, fa, sol, la si trong âm nhạc phương Tây”, một nhà folklore Tây Nguyên quả quyết.

Chủ động lựa chọn các giá trị văn hóa ngoại sinh

Trao đổi về ý kiến trên, nhạc sĩ Y Phôn KSơr ở tỉnh Đắk Lắk - tác giả của những ca khúc nổi tiếng: "Chim phí bay về cội nguồn", "Đôi chân trần", "Đi tìm lời ru nữ thần mặt trời"... - nói:

“Thường thì cồng chiêng KHo, Mạ, MNông ở Lâm Đồng thiết lập thang 3 âm (bộ chiêng có 3 chiếc chiêng) hoặc thang 6 âm (bộ chiêng có 6 chiếc chiêng) cho mỗi bộ chiêng, cồng chiêng Bana và cồng chiêng Jrai ở Đắk Lắk, Gia Lai lại thiết lập thang 4 âm (bộ chiêng có 4 chiếc chiêng), thang 5 âm (bộ chiêng có 5 chiếc chiêng), thang 8 âm (bộ chiêng có 8 chiếc chiêng), thang trên 8 (bộ chiêng có hơn 8 chiếc chiêng) âm cho mỗi bộ chiêng.

So với âm nhạc ngũ cung phương Tây, quãng 3 và quãng 5 trong cồng chiêng KHo, Mạ, MNông giữa trưởng và thứ không rõ ràng nhưng các quãng 8, quãng 5 và quãng 4 của cồng chiêng Bana, Jrai thì hoàn toàn đúng với âm nhạc ngũ cung phương Tây”.

Theo nhạc sĩ Y Phôn KSơr, nếu cồng chiêng Êđê, MNông, KHo... “tâm sự” bằng tiết tấu thì cồng chiêng Jrai, Bana... lại “tâm sự” bằng giai điệu. Tùy từng tộc người, từng buôn, bon, plei... sẽ có sự sắp xếp, định biên những dàn nhạc cồng chiêng khác nhau. Kỹ thuật diễn tấu cồng chiêng của mỗi tộc người, mỗi buôn, bon, plei... cũng mỗi khác.

Nghệ nhân Ka Hem ở tỉnh Lâm Đồng chia sẻ: “Trước kia, nhạc cụ của người bản địa Tây Nguyên luôn phân theo giới tính: cồng chiêng, trống, trưng... là những nhạc cụ chỉ dành cho nam giới. Ngày nay, sự phân giới trong sử dụng nhạc của người bản địa Tây Nguyên đã dần thay đổi, trưng thì gần như gắn chặt với hình ảnh của người phụ nữ Tây Nguyên. Nữ giới Tây Nguyên bây giờ cũng đánh trống, chơi chiêng không hề kém cạnh nam giới”. Sự cải biến này, khiến một số nhà folklore Tây Nguyên lo ngại: “Bản sắc dân tộc Tây Nguyên sẽ bị “xóa” trắng trong kỷ nguyên toàn cầu?!”.

Nghệ nhân Ưu tú KTếu ở tỉnh Lâm Đồng tâm sự: “Một khi có sự giao lưu văn hóa, chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Thế nên thay vì lo ngại bản sắc văn hóa Tây Nguyên rồi đây sẽ biến mất và thụ động bảo tồn nguyên dạng các dạng thức văn hóa truyền thống Tây Nguyên, cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên nên chủ động nâng tầm sức mạnh nội sinh. Tốt nhất vẫn là tiếp biến những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của những cộng đồng ngoài cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên, bên cạnh việc loại bỏ những giá trị văn hóa cổ truyền không còn phù hợp với đời sống xã hội đương đại để gia tăng sự ảnh hưởng các giá trị văn hóa tốt đẹp nội sinh”.

Theo Nghệ nhân Ưu tú KTếu, sở dĩ lâu nay vẫn tồn tại 2 luồng ý kiến: bảo tồn nguyên dạng các giá trị văn hóa cổ truyền Tây Nguyên và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc Tây Nguyên nhưng chưa đi đến sự thống nhất là vì mọi người đã tách 1 định đề kép thành 2 vế: “bảo tồn” - “phát huy”.

Những người nhìn theo hướng “bảo tồn” thì thấy những biến cải các giá trị văn hóa cổ truyền Tây Nguyên đang góp phần đẩy nhanh quá trình làm tan bộ mặt văn hóa truyền thống Tây Nguyên. Những người nhìn theo hướng “phát huy” thì lại nghĩ các giá trị văn hóa cổ truyền Tây Nguyên đang tạo ra lực cản cản trở sự gia tăng sức mạnh mềm của văn hóa Tây Nguyên.

Thực ra, đây là một thể thống nhất, không hề có sự tách bạch: bảo tồn là để phát huy và phát huy là để bảo tồn. “Cố kết với nguồn cội, trên cơ sở tiếp biến những giá trị văn hóa mới, ấy là cách những người trẻ Tây Nguyên giới thiệu mình trước thế giới”, nhà thiết kế KJona - một người con của dân tộc KHo ở tỉnh Lâm Đồng - nói về cách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Tây Nguyên của bản thân.

Nhà thiết kế KJona cũng cho rằng, chủ động lựa chọn các giá trị văn hóa ngoại sinh để tạo thành bản sắc mới chính là cách để giữ gìn bản sắc văn hóa Tây Nguyên bởi không một ai có thể cưỡng lại sức hấp dẫn của những lợi ích kinh tế trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, nhất là phương thức sản xuất và hình thái kinh tế ở Tây Nguyên đã thay đổi.

Trịnh Chu

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/tu-hoi-yang-den-chu-dong-chon-van-hoa-ngoai-sinh-i784972/