Từ linh kiện rời đến giá trị cao: Con đường nào cho ngành sản xuất Việt?
Theo Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI) Trương Thị Chí Bình, ở vị thế đáy chuỗi giá trị, ngành sản xuất Việt Nam đối diện không ít thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội để các doanh nghiệp trong nước có thể vươn lên.
Tại hội thảo “Góc nhìn từ Đức về cách Việt Nam có thể nâng tầm ngành sản xuất“ ngày 17/9 tại Hà Nội, bà Trương Thị Chí Bình - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho biết: "Nhìn vào sơ đồ chuỗi giá trị, có thể thấy các công ty sản xuất của Việt Nam hiện đang nằm ở phần đáy. Đây là một thực tế mà chúng ta đã biết từ lâu.
Tuy nhiên, bà cũng chỉ ra rằng ngay cả ở "đáy" này, vẫn có nhiều cấp độ gia tăng giá trị khác nhau. Việc sản xuất cụm linh kiện sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn so với linh kiện rời, và dịch chuyển lên các phân khúc cao hơn như lắp ráp thành phẩm sẽ mang lại lợi ích kinh tế vượt trội.
Theo khảo sát của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 2021, các doanh nghiệp tạo ra giá trị gia tăng cao thường là các doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong ngành chế tạo chủ yếu vẫn tập trung sản xuất linh kiện rời.
"Điều này cho thấy, ở những ngành đòi hỏi công nghệ cao hơn như điện tử, doanh nghiệp FDI đang chiếm ưu thế vượt trội, và đây cũng là khu vực mà doanh nghiệp Việt Nam có mức độ tham gia còn rất hạn chế", Phó Chủ tịch VASI đánh giá.
Cụ thể, trong ngành điện và điện tử, FDI chiếm tới 80% thị phần. Ngược lại, ngành cơ khí lại là sân chơi của doanh nghiệp tư nhân (80%), trong khi ngành nhựa và cao su có sự cân bằng hơn.

Bà Trương Thị Chí Bình - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI).
Trong chuỗi cung ứng, các công ty FDI và doanh nghiệp trong nước ở tầng gần nhất có khoảng 200-300 đối tác, trong đó doanh nghiệp Việt Nam chiếm khoảng 1/3. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lại hoạt động ở các tầng thấp hơn với số lượng rất lớn, một tình hình chung của nhiều quốc gia đang phát triển.
Điển hình trong ngành công nghiệp ô tô, các doanh nghiệp VASI chủ yếu cung cấp linh kiện rời như cơ khí, dập, dầu, nhựa cho các nhà lắp ráp lớn. Ngoại trừ một số ít trường hợp tự sản xuất nội bộ, chỉ có bộ dây điện là một cụm hoàn chỉnh có thể lắp đặt ngay.
"Việc chỉ sản xuất linh kiện rời không tạo ra lợi thế cạnh tranh khi xuất khẩu. Tại thị trường Việt Nam, việc này khá dễ dàng, nhưng đối với khách hàng quốc tế, họ mong muốn mua cụm linh kiện hoàn chỉnh thay vì phải nhập các chi tiết rời về tự lắp ráp", bà Bình nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch VASI, doanh nghiệp Việt Nam đang có lợi thế trong lĩnh vực giải pháp và máy móc tự động hóa. Đây là các sản phẩm đơn chiếc, đòi hỏi sự tùy chỉnh cao, nơi các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh tốt hơn so với các đối thủ sản xuất hàng loạt như Trung Quốc hay Ấn Độ. Nhiều thành viên VASI đã xuất khẩu máy móc tự động hóa chất lượng cao sang Mỹ một cách thường xuyên.
Về thị trường xuất khẩu, Bắc Mỹ và Nhật Bản đang tăng trưởng rất nhanh, kể cả Trung Quốc. Ngược lại, thị trường EU lại tăng trưởng chậm chạp và được đánh giá là khó tính nhất thế giới.
Thị trường EU, bao gồm cả Đức, lại tăng trưởng rất chậm. Các doanh nghiệp đều đánh giá EU là thị trường khó tính nhất thế giới vì nhiều lý do. Sự phân mảnh thị trường, các tiêu chuẩn khắt khe riêng biệt của từng quốc gia thành viên đã khiến EU không còn là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà sản xuất Việt Nam.
Trong khi đó, xung đột thương mại Mỹ - Trung đã thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam nhận được đơn hàng sản xuất cụm linh kiện và cả sản phẩm hoàn thiện (OEM). Tuy nhiên, quá trình này đã bộc lộ điểm yếu về năng lực cung ứng trong nước. Việt Nam vẫn kém xa Trung Quốc trong việc đáp ứng các đơn hàng OEM, chưa nói đến ODM (thiết kế và sản xuất) hay OBM (sản xuất dưới thương hiệu riêng).
Gần đây, yêu cầu gia tăng giá trị đã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi Mỹ áp thuế đối ứng 20% lên hàng hóa Việt Nam, kèm theo phụ lục 232 đánh thuế 50% lên giá trị vật liệu kim loại trong sản phẩm.
"Điều này buộc các doanh nghiệp phải tập trung vào gia tăng giá trị gia công, giảm tỷ trọng chi phí vật liệu để giữ vững khả năng cạnh tranh và tránh nguy cơ mất đơn hàng vào tay các đối thủ khác, kể cả quay lại Trung Quốc. Đây là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ, thúc đẩy ngành sản xuất Việt Nam phải nhanh chóng chuyển mình để vững vàng hơn trong bối cảnh thương mại toàn cầu đầy biến động", bà Bình nói.
Đánh giá về năng lực ngành sản xuất Việt Nam, ông Björn Koslowski - Phó Trưởng Đại diện, Đoàn Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam cho biết, từ năm 1996, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu trong ngành sản xuất, nhờ các hoạt động cải cách và trở thành điểm đến hấp dẫn cho đầu tư FDI với khoảng 2-3 tỷ USD mỗi năm. Việt Nam cũng đang là một trong những quốc gia đi đầu trong lĩnh vực xuất khẩu.
"Tuy nhiên, có vẻ như các doanh nghiệp Việt Nam đang hơi đi sau thế giới một chút. Tỷ trọng xuất khẩu chủ yếu vẫn là của các doanh nghiệp FDI, còn doanh nghiệp nội địa Việt Nam đóng góp rất thấp. Đây là một điểm chúng ta có thể cải thiện.
Chúng tôi có rất nhiều dự án nhằm kết nối các doanh nghiệp với các công ty cung cấp nguyên vật liệu đầu vào. Nhiệm vụ của chúng tôi là giúp các thành viên khi đến Việt Nam tìm kiếm nhà cung cấp và đối tác. Có một danh sách rất dài trong các lĩnh vực như sản xuất, công nghiệp phụ trợ, nhựa, cao su, điện và điện tử", ông Björn Koslowski thông tin.