Từ lớp học nghề đến việc làm bền vững: Chìa khóa giảm nghèo ở những vùng khó khăn
Giáo dục nghề nghiệp, xuất khẩu lao động và kết nối việc làm đang trở thành ba trụ cột quan trọng của Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, giúp hàng chục nghìn người dân vùng khó có kỹ năng, có việc làm và tự chủ tương lai.
Từ vùng ven biển Quỳnh Lưu (Nghệ An), xưởng cơ khí nhỏ ở Tân Mai vang tiếng máy từ sớm mỗi ngày. Chủ xưởng Trần Văn Tâm từng là lao động thời vụ, nay có việc làm ổn định nhờ khóa đào tạo nghề của địa phương.
Giáo dục nghề nghiệp và việc làm là “chìa khóa” của hành trình giảm nghèo bền vững – không chỉ mở ra cơ hội thoát nghèo mà còn giúp người dân tự làm chủ tương lai.
Trong những năm qua, công tác giáo dục nghề nghiệp được xác định là một “mũi nhọn” trong Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 (Chương trình), những định hướng ấy đã được cụ thể hóa bằng nhiều kết quả rõ nét, lan tỏa đến từng vùng nghèo, vùng khó khăn trong cả nước.
Theo báo cáo tổng kết của Chương trình, 146 cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị; 131 bộ chuẩn giáo dục nghề nghiệp cùng 1.981 chương trình, giáo trình, học liệu được xây dựng, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, 9.461 lượt nhà giáo và cán bộ quản lý đã được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn.
Ở nhiều địa phương, các lớp học nghề gắn với sinh kế thực tế như trồng trọt, chăn nuôi, may mặc, chế biến nông sản… đã giúp hàng nghìn hộ nghèo có thêm thu nhập ổn định, tự tin vươn lên.
Sự thay đổi trong sinh kế của những người như ông Tâm là một lát cắt trong bức tranh rộng lớn, do được hưởng thụ từ dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp, thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025.

Trung tâm tư vấn hỗ trợ việc làm thanh niên tỉnh Nghệ An. Ảnh: TTTVHTVL thanh niên Nghệ An
Cánh cửa ra thế giới - Xuất khẩu lao động từ những vùng khó khăn
Song song với đào tạo nghề trong nước, Chương trình còn mở thêm một “cánh cửa sinh kế” khác là xuất khẩu lao động. Đặc biệt đối với các xã nghèo và vùng bãi ngang ven biển, đây là hướng đi quan trọng để người lao động tích lũy vốn và trải nghiệm mô hình làm việc công nghiệp.
Gần 4 năm qua, hơn 10.000 lượt lao động được hỗ trợ đào tạo và làm thủ tục; 4.395 người đã xuất cảnh đi lao động, đạt 77% kế hoạch; gần 46.000 lượt người được tư vấn về thị trường lao động an toàn; 596 lao động được nâng cao trình độ ngoại ngữ theo thỏa thuận với các nước tiếp nhận.
Những con số này phản ánh sự dịch chuyển trong tư duy chính sách, coi xuất khẩu lao động không chỉ là giải pháp giải quyết việc làm, mà là một kênh phát triển nguồn nhân lực. Nhiều lao động sau khi hoàn thành hợp đồng trở về đã đầu tư sản xuất, mở xưởng nhỏ hoặc khởi sự kinh doanh, góp phần tạo việc làm tại chính quê hương mình.
Tuy vậy, lĩnh vực này cũng đối mặt không ít thách thức như thủ tục còn kéo dài, một số thị trường bị ảnh hưởng do biến động hậu Covid-19, tâm lý e ngại ngoại ngữ và lo ngại rủi ro của người dân vẫn còn phổ biến. Việc hỗ trợ thông tin, minh bạch quy trình, rút ngắn thời gian hoàn thiện hồ sơ đang được các địa phương và cơ quan quản lý thúc đẩy mạnh mẽ hơn.
Kết nối việc làm - Mắt xích cuối của chuỗi chính sách
Theo Báo cáo 711 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường ngày 21/8/2025 tổng kết về Chương trình, gần 134.000 lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đã được hỗ trợ kết nối việc làm thành công, vượt mục tiêu tối thiểu 100.000 lao động. Gần 8.437 phiên giao dịch việc làm, ngày hội, hội chợ việc làm được tổ chức, và trên 40 triệu người lao động được thu thập, cập nhật thông tin gắn với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm trên toàn quốc ngày càng hiện đại hóa, đóng vai trò trung gian trong mạng lưới “ba bên”: doanh nghiệp – trung tâm – cơ sở đào tạo. Mối liên kết này giúp quá trình đào tạo sát hơn với nhu cầu thực tế, hạn chế tình trạng “đào tạo xong nhưng không có việc làm phù hợp”.
Tuy nhiên, sự không đồng bộ về hạ tầng công nghệ thông tin giữa các địa phương vẫn là trở ngại. Nhiều nơi báo cáo chậm, cơ sở dữ liệu chưa hoàn chỉnh, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa – nơi khoảng cách số tạo ra rào cản mới trong tiếp cận việc làm. Để chuyển đổi số thực sự bao trùm, cần đầu tư hạ tầng và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của cả cán bộ lẫn người lao động.
Nhìn tổng thể, Chương trình đang tạo ra một cách tiếp cận mới trong giảm nghèo, tạo năng lực thay vì chỉ hỗ trợ trực tiếp. Khi người lao động có kỹ năng, có thông tin thị trường và có cơ hội làm việc – dù trong nước hay ngoài nước – họ có thể chủ động viết tiếp câu chuyện phát triển của mình. Đây là hướng đi phù hợp trong bối cảnh kinh tế đang chuyển mình dưới tác động của hội nhập và công nghệ.
Để chương trình tiếp tục phát huy hiệu quả, nhiều kiến nghị đã được nêu trong báo cao, cập nhật mức hỗ trợ đào tạo nghề cho phù hợp giá cả hiện nay; hoàn thiện kết nối dữ liệu giữa giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp và thị trường lao động; rút ngắn thủ tục xuất khẩu lao động; tăng cường theo dõi hiệu quả sau đào tạo; và tổng kết mô hình tốt để nhân rộng trên quy mô lớn.
Sau gần 4 năm thực hiện, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững 2021–2025 đã chứng minh rằng đầu tư vào con người là cách đầu tư bền vững nhất. Khi người dân vùng khó có nghề, có việc làm và có khả năng thích ứng với thị trường, lợi ích không chỉ dừng ở thu nhập mà lan rộng đến cộng đồng – từ sinh kế, giáo dục đến sự tự tin và tinh thần tự chủ.
Trong giai đoạn tiếp theo, giáo dục nghề nghiệp và việc làm vẫn sẽ là trụ cột quan trọng của chiến lược giảm nghèo ở Việt Nam. Những gì đã đạt được từ Dự án 4 là bước nền để xây dựng tương lai nơi mỗi người dân, dù ở vùng nghèo hay vùng xa, đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và không ai bị bỏ lại phía sau.











