Từ lớp học vùng cao nghĩ về những đổi thay của giáo dục

Những yêu cầu đặt ra cho giáo dục phổ thông trong bối cảnh đổi mới thi - tuyển sinh

Những năm gần đây, giáo dục phổ thông liên tục đứng trước áp lực điều chỉnh chương trình, đổi mới thi cử và sự đa dạng hóa phương thức tuyển sinh đại học. Kỳ thi tốt nghiệp THPT vốn được thiết kế để xét tốt nghiệp nhưng đồng thời lại là một trong những căn cứ tuyển sinh đại học, khiến đề thi khó bảo đảm vừa có tính phổ cập, vừa đáp ứng yêu cầu phân hóa - một điểm nghẽn kéo dài nhiều năm và mùa thi nào cũng gợi lại những băn khoăn về mức độ “hai trong một”. Sự thay đổi của các văn bản quy chế, hướng dẫn và ma trận đề thi đôi khi diễn ra sát thời điểm áp dụng, khiến không ít trường phổ thông lúng túng trong việc chủ động xây dựng kế hoạch dạy học dài hạn. Cùng thời điểm đó, các trường đại học lại sử dụng nhiều phương thức tuyển sinh khác nhau; nếu không có chuẩn hóa hoặc truyền thông nhất quán, sự đa dạng này dễ gây nhiễu thông tin và tăng thêm gánh nặng tư vấn hướng nghiệp cho giáo viên. Những áp lực ấy đặt ra yêu cầu cao hơn đối với đội ngũ nhà giáo: từ năng lực nắm bắt chính sách, hiểu cấu trúc đề thi, đổi mới phương pháp đến hỗ trợ học sinh định hướng nghề nghiệp. Chính những biến động này cho thấy việc tạo dựng một môi trường dạy - học ổn định, có đủ điều kiện để giáo viên yên tâm giảng dạy là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh giáo dục đang chuyển mình.

Tại sao giáo viên vùng núi như Cao Bằng chịu tác động mạnh hơn?

Những khó khăn chung của cả nước khi soi chiếu vào điều kiện miền núi như Cao Bằng lại càng trở nên rõ nét hơn. Tại nhiều xã vùng sâu, học liệu còn thiếu, phòng học tạm chưa được thay thế, cơ sở vật chất và kết nối internet chưa đồng đều. Khi đề thi mới tăng cường các bài đọc hiểu dài, bài phân tích dữ liệu, học sinh vùng cao gặp bất lợi ngay từ điểm xuất phát do hạn chế về vốn từ và thiếu môi trường rèn luyện kỹ năng học thuật. Việc tiếp cận tập huấn của giáo viên vùng khó cũng bị chậm nhịp khi nhiều tài liệu, ma trận đề thi ban hành sát kỳ thi, trong khi điều kiện kết nối internet không phải nơi nào cũng thuận lợi để tham gia bồi dưỡng từ xa. Áp lực tư vấn tuyển sinh càng lớn hơn khi học sinh phải lựa chọn giữa nhiều phương thức khác nhau, đòi hỏi giáo viên không chỉ cập nhật liên tục mà còn phải giải thích cặn kẽ cho phụ huynh - học sinh để tránh hiểu sai. Thiếu giáo viên STEM, ngoại ngữ, tin học; tình trạng lớp ghép; khoảng cách đi lại xa khiến công việc của mỗi giáo viên vùng cao là sự nỗ lực gấp nhiều lần. Khoảng cách kỹ năng nền tảng cũng khiến việc dạy - học thêm phần thử thách. Nhiều em chưa quen với các dạng bài yêu cầu tư duy phân tích hoặc kỹ năng đọc - viết mở rộng, buộc giáo viên phải bồi đắp từ những năng lực cơ bản nhất.

20/11 ở Cao Bằng: Tôn vinh sự bền bỉ của đội ngũ nhà giáo

Trong bối cảnh ấy, ngày 20/11 tại Cao Bằng mang ý nghĩa đặc biệt hơn những lễ tri ân thông thường. Đó là sự ghi nhận dành cho đội ngũ thầy cô - những người đang ngày ngày giữ lớp học ở cả các phường trung tâm lẫn các xã vùng cao, vượt qua điều kiện còn nhiều hạn chế để mang đến cho học sinh cơ hội học tập tốt nhất có thể. Ở những nơi cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đường sá đi lại khó khăn, điều kiện sinh hoạt hạn chế, vai trò của người thầy càng trở nên bền bỉ và đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Nhiều thầy cô vừa dạy học vừa hỗ trợ sinh hoạt, động viên tâm lý cho học sinh bán trú - nội trú; vừa cập nhật liên tục các thay đổi của kỳ thi và chương trình để bảo đảm học sinh không bị bỏ lại phía sau. Thầy cô ở vùng thuận lợi hay vùng khó đều xứng đáng được tôn vinh như nhau. Nhưng với những giáo viên vùng cao đang chịu nhiều áp lực đặc thù của địa hình và điều kiện sống, sự tôn vinh ấy cần song hành với sự sẻ chia và quan tâm thực chất hơn: từ chính sách hỗ trợ, điều kiện làm việc, chỗ ở, đi lại, đến cơ hội bồi dưỡng và tiếp cận các nguồn lực một cách công bằng.

Chủ tịch UBND tỉnh Lê Hải Hòa khảo sát vị trí dự kiến xây dựng Trường Phổ thông nội trú liên cấp TH&THCS Trường Hà.

Chủ tịch UBND tỉnh Lê Hải Hòa khảo sát vị trí dự kiến xây dựng Trường Phổ thông nội trú liên cấp TH&THCS Trường Hà.

Trường nội trú biên giới - hướng đi chiến lược, mở ra tư duy mới cho giáo dục vùng cao

Trong bức tranh giáo dục miền núi, hệ thống trường nội trú biên giới ngày càng thể hiện rõ vai trò chiến lược. Trường nội trú không chỉ giúp học sinh vùng sâu, vùng xa có cơ hội học tập liên tục và giảm bỏ học mà còn tạo ra môi trường thuận lợi để rèn luyện kỹ năng nền tảng và tăng cường tiếng Việt. Với nhiều gia đình khó khăn, đây còn là mô hình hỗ trợ thiết thực, giúp con em họ có điều kiện học tập ổn định và mở rộng cánh cửa tiếp cận THPT, cao đẳng, đại học. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục, sự phát triển của hệ thống nội trú còn đánh dấu một chuyển biến tư duy quan trọng: từ cách làm truyền thống là đưa thầy cô đến tận thôn bản sang mô hình đưa học sinh thôn bản đến học tại các trường trung tâm. Đây không chỉ là sự thay đổi giản đơn về tổ chức, mà là bước cơ cấu lại mạng lưới trường lớp theo hướng tinh gọn, hiệu quả và bền vững hơn: giảm trường nhỏ lẻ, giảm đầu mối quản lý, tăng quy mô trường lớp, tập trung nguồn lực ở những nơi có điều kiện tốt, bảo đảm đội ngũ giáo viên được bố trí đúng chuyên môn và giải quyết căn cơ bài toán thiếu giáo viên cũng như sự vênh giữa định mức - biên chế kéo dài nhiều năm. Nhờ mô hình tập trung đó, học sinh được thụ hưởng điều kiện học tập đồng bộ hơn, còn giáo viên giảm được áp lực di chuyển và có môi trường thuận lợi để đổi mới phương pháp, tiếp cận bồi dưỡng chuyên môn. Trường nội trú cũng mở ra không gian giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, giúp học sinh rèn nền nếp, tác phong, kỹ năng sống và tinh thần tập thể - những yếu tố mà mô hình trường lớp phân tán khó mang lại. Ở góc độ xã hội và an ninh, mô hình nội trú còn đóng vai trò như “vành đai dân cư - giáo dục”, giúp nâng cao hiểu biết pháp luật, phòng ngừa mua bán người, hạn chế vượt biên trái phép, đồng thời hình thành thế hệ trẻ có ý thức trách nhiệm sâu sắc với quê hương và biên giới. Dẫu vậy, hệ thống nội trú vẫn đối mặt với không ít thách thức: từ thiếu thiết bị, nhân lực nuôi dưỡng - y tế học đường, đến thiếu giáo viên chuyên môn, chi phí vận hành cao và nhu cầu hỗ trợ tâm lý cho học sinh xa gia đình. Nếu thiếu chuẩn hóa về quản trị và chương trình, các trường dễ phát triển không đồng đều. Vì thế, Cao Bằng đang thúc đẩy truyền thông sớm về đổi mới thi cử, tổ chức tập huấn theo cụm, đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng học liệu số và phân tích dữ liệu nhiều năm để lập “bản đồ năng lực” hỗ trợ các xã khó; đồng thời từng bước chuẩn hóa mô hình nội trú theo hướng nhân văn - an toàn - hiệu quả, gắn kết chặt chẽ với chính quyền cơ sở và lực lượng biên phòng để bảo đảm sự bền vững của mô hình. Giáo dục vùng cao không chỉ là nhiệm vụ của ngành giáo dục mà còn là chiến lược phát triển con người và củng cố vững chắc khu vực biên giới. Cao Bằng đang từng bước xây dựng một hệ thống giáo dục ổn định, bền vững, nhân văn; đặt thầy cô vào vị trí trung tâm của đổi mới và học sinh vào vị trí mục tiêu của mọi chính sách. Và từ hành trình ấy, có thể thấy rõ rằng chủ trương xây dựng hệ thống trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học - trung học cơ sở tại các xã biên giới, theo tinh thần Thông báo số 81-TB/TW của Bộ Chính trị, không chỉ là một giải pháp giáo dục trước mắt mà còn là tầm nhìn chiến lược nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, thu hẹp bất bình đẳng và tạo nền tảng bền vững cho sự ổn định lâu dài của các vùng biên giới Tổ quốc.

Lê Hải Hòa, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/tu-lop-hoc-vung-cao-nghi-ve-nhung-doi-thay-cua-giao-duc-3182431.html