Từ ngày 1/2/2024, xe quá tải, xe quá khổ cần lưu ý gì trong quy định mới?

Thông tư số 35/2023/TT-BGTVT, vừa được Bộ Giao thông vận tải ban hành về thay đổi cách xác định xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn lưu hành trên đường bộ.

Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải vừa ban hành Thông tư 35/2023/TT-BGTVT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 46/2015/TT-BGTVT quy định về tải trọng, khổ giới hạn của đường bộ; lưu hành xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn, xe bánh xích trên đường bộ; vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng và giới hạn xếp hàng hóa trên phương tiện giao thông đường bộ khi tham gia giao thông trên đường bộ.

Sửa quy định về xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn lưu hành trên đường bộ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/2/2024. (Ảnh minh họa)

Sửa quy định về xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn lưu hành trên đường bộ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/2/2024. (Ảnh minh họa)

Căn cứ Thông tư số 35/2023/TT-BGTVT sửa đổi khoản 1 Điều 9 Thông tư 46/2015/TT-BGTVT, xe quá tải trọng của đường bộ là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thuộc ít nhất một trong các trường hợp.

Thứ nhất, tổng trọng lượng (khối lượng toàn bộ) của xe vượt quá trị số ghi trên biển báo hiệu “hạn chế trọng tải toàn bộ xe” hoặc biển báo hiệu “Loại xe hạn chế qua cầu” tại nơi có một trong hai loại biển báo hiệu này.

Thứ hai, tổng trọng lượng (khối lượng toàn bộ) của xe vượt quá quy định về giới hạn tổng trọng lượng của xe tại Điều 17 của Thông tư 46/2015/TT-BGTVT tại nơi không có cả hai loại biển báo hiệu “hạn chế trọng tải toàn bộ xe” và “Loại xe hạn chế qua cầu”.

Tiếp theo, tải trọng trục xe vượt quá trị số ghi trên biển báo hiệu “Hạn chế tải trọng trên trục xe” hoặc biển báo hiệu “Tải trọng trục hạn chế qua cầu” tại nơi có một trong hai loại biển báo hiệu này.

Cuối cùng, tải trọng trục xe vượt quá quy định về giới hạn tải trọng trục xe tại Điều 16 của Thông tư 46/2015/TT-BGTVT tại nơi không có cả hai loại biển báo hiệu “Hạn chế tải trọng trên trục xe” và “Tải trọng trục hạn chế qua cầu”.

Đối với xe quá khổ giới hạn của đường bộ, theo Thông tư số 35/2023/TT-BGTVT sửa đổi khoản 2 Điều 9 Thông tư 46/2015/TT-BGTVT, đây là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ có kích thước bao ngoài kể cả hàng hóa xếp trên xe (nếu có) thuộc ít nhất một trong các trường hợp cụ thể.

Thứ nhất, chiều dài vượt quá trị số ghi trên biển báo hiệu “Hạn chế chiều dài xe” hoặc biển báo hiệu “Hạn chế chiều dài xe cơ giới kéo theo rơ-moóc hoặc sơ-mi-rơ-moóc” tại nơi có một trong hai loại biển báo hiệu này.

Thứ hai, chiều dài lớn hơn 20m hoặc lớn hơn 1,1 lần chiều dài toàn bộ của xe tại nơi không có cả hai loại biển báo hiệu “Hạn chế chiều dài xe” và “Hạn chế chiều dài xe cơ giới kéo theo rơ-moóc hoặc sơ-mi-rơ-moóc”.

Thứ ba, chiều rộng vượt quá trị số ghi trên biển báo hiệu “Hạn chế chiều ngang xe” tại nơi có loại biển báo hiệu này.

Thứ tư, chiều rộng lớn hơn 2,5m tại nơi không có loại biển báo hiệu “Hạn chế chiều ngang xe”.

Tiếp theo, chiều cao tính từ mặt đường bộ trở lên vượt quá trị số ghi trên biển báo hiệu “Hạn chế chiều cao” tại nơi có loại biển báo hiệu này.

Cuối cùng, chiều cao tính từ mặt đường bộ trở lên lớn hơn 4,2m, đối với xe chở container lớn hơn 4,35m tại nơi không có loại biển báo hiệu “Hạn chế chiều cao”.

Ngoài ra, căn cứ sửa đổi khoản 3 Điều 9 Thông tư 46/2015/TT-BGTVT, xe máy chuyên dùng có tổng trọng lượng của xe, tải trọng trục xe hoặc kích thước bao ngoài thuộc ít nhất một trong các trường hợp quy định xe quá tải trọng đường bộ và xe quá khổ đường bộ khi tham gia giao thông được coi là xe quá tải trọng, xe quá khổ giới hạn.

Thông tư 35/2023/TT-BGTVT có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/2/2024.

Ngọc Anh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/tu-ngay-122024-xe-qua-tai-xe-qua-kho-can-luu-y-gi-trong-quy-dinh-moi-292320.html