Từng bước hội nhập sâu với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu
Góp ý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội) cho rằng, việc bổ sung vai trò của hệ thống đại học - viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế, sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trồng trọt, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm; từng bước hội nhập sâu với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu.
Hợp nhất đầu mối quản lý nông nghiệp và môi trường
Phát biểu thảo luận, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã làm việc nghiêm túc, công phu và khoa học, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc hoàn thiện hồ sơ Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi. Theo đại biểu, việc sửa đổi là rất cần thiết, nhằm bảo đảm phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp, đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy, tăng cường phân cấp, phân quyền, đồng thời cụ thể hóa các nghị quyết mới của Đảng và Bộ Chính trị về phát triển khoa học – công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số.
Đáng chú ý, dự thảo đã có nhiều ưu điểm nổi bật, thể hiện ở việc hợp nhất đầu mối quản lý giữa nông nghiệp và môi trường, tăng cường liên thông dữ liệu, minh bạch hóa quản lý Nhà nước; chú trọng ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giám sát, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ tài nguyên.
"Đặc biệt, các nội dung sửa đổi đã chú ý đến phân cấp hợp lý, giao quyền chủ động hơn cho địa phương nhưng vẫn bảo đảm sự thống nhất quản lý ở Trung ương, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế biển xanh và nông thôn bền vững trong giai đoạn mới", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.

ĐBQH Nguyễn Thị Lan phát biểu thảo luận tại Tổ 1
Góp ý tại Điều 15 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trồng trọt năm 2018, đại biểu cho rằng dự thảo đã thể hiện rõ định hướng hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về giống cây trồng, phân bón, mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp hiện đại, minh bạch và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đại biểu nhận thấy vẫn còn một số nội dung cần được làm rõ và bổ sung để bảo đảm tính khả thi, đồng thời nâng cao năng lực quản lý và chất lượng kiểm soát trong lĩnh vực trồng trọt.
Trước hết, về quản lý giống cây trồng và phân bón tại khoản 3 Điều 9 đã quy định cụ thể các hành vi vi phạm và điều kiện sản xuất, kinh doanh. Theo ĐBQH Nguyễn Thị Lan, quy định này là cần thiết để siết chặt kỷ cương quản lý nhưng cần bổ sung vai trò của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu nông nghiệp trong công tác kiểm định, đánh giá độc lập chất lượng giống và phân bón. Đại biểu dẫn chứng ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Hà Lan, các trường Đại học nông nghiệp được Nhà nước công nhận là phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia, có chức năng kiểm định độc lập, giám sát và phản biện kỹ thuật.
"Cơ chế này giúp giảm tải cho cơ quan hành chính, tăng tính khách quan, đồng thời cập nhật nhanh các tiến bộ khoa học vào quản lý thực tiễn. Việc Việt Nam bổ sung quy định này sẽ tạo nền tảng pháp lý để huy động trí tuệ khoa học trong kiểm soát chất lượng đầu vào của ngành trồng trọt", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Bổ sung vai trò các trường đại học, viện nghiên cứu trong quản lý trồng trọt
Liên quan đến khoản 2 Điều 15 về công nhận và gia hạn lưu hành giống cây trồng, dự thảo nâng thời hạn lên 20 năm đối với cây hàng năm và 25 năm đối với cây lâu năm, đồng thời cho phép gia hạn, về nội dung này, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đồng tình với hướng sửa này nhằm khuyến khích đầu tư vào chọn tạo giống, nhưng đề nghị bổ sung điều kiện gia hạn rõ ràng. Cụ thể, việc gia hạn cần dựa trên kết quả đánh giá định kỳ về năng suất, tính ổn định di truyền, khả năng thích nghi và tác động môi trường, do các đơn vị nghiên cứu – đào tạo được Bộ chỉ định thực hiện. Ở nhiều nước OECD, việc công nhận hoặc gia hạn giống chỉ được tiến hành sau khi hoàn thành bài kiểm định DUS (Distinctness, Uniformity, Stability - tính khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định của giống cây trồng) do tổ chức khoa học độc lập thực hiện. Đại biểu cho rằng, nếu áp dụng cơ chế này ở Việt Nam sẽ giúp bảo đảm tính khoa học, minh bạch, tránh tình trạng giống bị thoái hóa vẫn lưu hành kéo dài, ảnh hưởng đến năng suất và uy tín nông sản.
"Sau này, khi triển khai luật tôi đề nghị, cơ quan quản lý nghiên cứu hướng dẫn công nhận giống, làm thế nào để thuận lợi hơn, rút ngắn thời gian để giống sớm được đưa vào thực tiễn sản xuất, có thể xem xét một số trường hợp công nhận tạm thời, và tiếp tục theo dõi để cấp phép. Làm thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân, phù hợp điều kiện Việt Nam và tiệm cận chuẩn mực quốc tế", ĐBQH Nguyễn Thị Lan kiến nghị.

Quang cảnh thảo luận tại Tổ 1
Về Điều 40 quy định điều kiện khảo nghiệm phân bón, đại biểu nhất trí với yêu cầu về trình độ chuyên môn và cơ sở vật chất đạt chuẩn, song đề nghị bổ sung hai điểm sau.
Thứ nhất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần công khai danh sách các tổ chức được phép khảo nghiệm và tiến hành đánh giá lại năng lực định kỳ.
Thứ hai, cần cho phép các viện nghiên cứu, trường đại học có phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO/IEC 17025 được tham gia mạng lưới khảo nghiệm quốc gia. Theo phân tích của đại biểu, nhiều nước như Hàn Quốc và Pháp đã xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm liên kết giữa cơ quan quản lý và đại học, giúp tăng hiệu quả giám sát và giảm chi phí cho doanh nghiệp. Tại Việt Nam, chúng ta có thể tận dụng nguồn lực sẵn có tại các viện nghiên cứu, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Cần Thơ hay Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, là những cơ sở có năng lực khoa học cao và đội ngũ chuyên gia đạt chuẩn quốc tế để làm lực lượng kỹ thuật nòng cốt hỗ trợ Bộ trong kiểm định, giám sát chất lượng phân bón và vật tư nông nghiệp.
ĐBQH Nguyễn Thị Lan đề nghị, dự thảo cần bổ sung điều khoản về vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu trong hệ thống quản lý trồng trọt quốc gia bởi các cơ sở này không chỉ đào tạo nhân lực mà còn là đối tác kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu giống, kiểm định phân bón, đánh giá chất lượng và tư vấn chính sách. Việc thể chế hóa vai trò này sẽ tạo hành lang pháp lý cho mô hình hợp tác “nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nông dân”, tương tự mô hình Teagasc của Ireland hay INRAE của Pháp, nơi khoa học được đặt ở trung tâm chính sách nông nghiệp. Đây cũng là cách để Việt Nam tận dụng nguồn lực tri thức trong nước, tăng năng lực phản biện và cập nhật khoa học công nghệ vào quá trình hoạch định và giám sát chính sách.
"Việc bổ sung vai trò của hệ thống đại học - viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế, sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trồng trọt, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn thực phẩm, và từng bước hội nhập sâu với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu", ĐBQH Nguyễn Thị Lan phân tích.













