Tuyên ngôn Độc lập và sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Ảnh nhỏ: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945. Ảnh lớn: Quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2-9-1945. Ảnh: TL

Ảnh nhỏ: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945. Ảnh lớn: Quảng trường Ba Đình lịch sử, ngày 2-9-1945. Ảnh: TL

Cách đây 77 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta nhất tề đứng lên tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15-8-1845 đã kết luận: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”, vì vậy phải “kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”, khẩn trương “đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê, thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi làm chủ”, tất cả vì mục tiêu “Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

Lúc 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Tiếp đó, ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào đã thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thông qua Lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Quốc ca và bầu Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ ngày 14 đến 18-8-1945, chúng ta đã giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam...

Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu...

Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.

Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền trong cả nước thuộc về nhân dân.

Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại những lời bất hủ được ghi trong bản tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (năm 1776) và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp (năm 1791): “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; và: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi”.

Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh suy rộng ra thành quyền của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một sự sáng tạo trong tư duy của Người, thể hiện tầm nhìn thời đại, từ quyền của cá nhân trở thành quyền của dân tộc.

Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đây là khát vọng của nền độc lập dân tộc và hướng đến tương lai ấm no, văn minh, hạnh phúc.

Có thể khẳng định, bản Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn lập quốc vĩ đại, là bản anh hùng ca mở đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mở đầu bằng sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Năm tháng trôi qua, những giá trị tư tưởng của Tuyên ngôn Độc lập luôn sống mãi, trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, thành sức mạnh to lớn cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, cho đến những thành quả trong công cuộc bảo vệ và kiến thiết đất nước sau chiến tranh, đặc biệt là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 35 năm đổi mới.

Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đồng thời, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

THÁI VĂN KHỞI

Nguồn Kiên Giang: http://baokiengiang.vn//chinh-tri/tuyen-ngon-doc-lap-va-su-ra-doi-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa-9591.html