Ứng dụng AI trong khu vực công ở Việt Nam: Những bước khởi đầu trên con đường dài

Để đưa những trường hợp ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) còn ít ỏi trở thành thông lệ chung trong khu vực công ở Việt Nam, cần có chủ trương lớn mở rộng ứng dụng theo từng giai đoạn; xây dựng căn cứ pháp lý, hướng dẫn thực hiện; xác định và giải đúng bài toán; phối hợp chặt chẽ giữa các bên; mở rộng hợp tác công - tư.

Các thẩm phán có nhiệm vụ phải mã hóa thông tin đối với các bản án để đăng tải lên Cổng Thông tin điện tử Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC). Những vụ án có số lượng đương sự nhiều, các đương sự trùng tên, bản án dài thì thẩm phán phải mất vài ngày, còn những vụ ít phức tạp cũng mất vài tiếng mới mã hóa xong. Nay với sự trợ giúp của trợ lý ảo cho thẩm phán, công việc này chỉ mất vài giây.

Đây là một trong số các chức năng hữu ích của trợ lý ảo cho thẩm phán mà cán bộ phụ trách chuyển đổi số TANDTC giới thiệu với nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu chính sách và phát triển truyền thông (IPS). Trước đây, mỗi thẩm phán cần sự hỗ trợ của hai thư ký, nhưng trợ lý AI có khả năng phục vụ hàng ngàn thẩm phán cùng một lúc; giúp giảm 30% khối lượng công việc của cá nhân thẩm phán, qua đó cải thiện hiệu quả và thời gian hoạt động của toàn bộ hệ thống tòa án.

Còn ở Tây Ninh, chúng tôi được xem tận mắt trên màn hình một số ứng dụng AI do tỉnh phát triển như trợ lý ảo cho công chức, trợ lý ảo trong du lịch, camera giao thông tích hợp AI. Cách đây vài năm, AI được tích hợp vào việc bóc băng phát biểu của đại biểu Quốc hội, giúp tiết kiệm thời gian hơn nhiều so với làm thủ công. Những ví dụ này cho thấy, ứng dụng AI trong khu vực công giúp tiết kiệm nguồn lực, thời gian, giúp công chức có thời gian tập trung vào những công việc giá trị cao hơn.

Mới chỉ là những bước khởi đầu

Bên cạnh những kết quả ban đầu cho thấy tiềm năng của việc ứng dụng AI trong khu vực công ở Việt Nam, AI mới chỉ đi những bước khởi đầu xâm nhập vào khu vực công, phạm vi, quy mô ứng dụng chưa nhiều; chưa xác định đúng nhu cầu, chưa sát thực tế, còn thiếu hiệu quả; chưa quan tâm đến các vấn đề về bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư, AI có đạo đức.

Hầu hết các ứng dụng AI hiện có đang hướng tới mục tiêu cải thiện hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, mà chưa chú ý đến mục tiêu phục vụ người dân, trong đó có hỗ trợ người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi.

“Còn ít lắm, chưa có gì đâu, thậm chí có nơi chưa hình dung được ứng dụng AI là như thế nào” - đại diện của một cơ quan ở trung ương là đầu mối về chính quyền số cho biết.

Tại một hội thảo cuối năm 2024 về dữ liệu số và AI trong khu vực nhà nước, đại diện các sở thông tin và truyền thông đều chia sẻ, địa phương họ chưa ứng dụng AI trong hoạt động của mình. Còn báo cáo về chuyển đổi số quốc gia năm 2024 cũng chỉ đề cập một số ít ứng dụng AI ở một số cơ quan nhà nước đang trong quá trình hoàn tất thử nghiệm mà chưa được triển khai chính thức.

Việc ứng dụng AI trong các cơ quan nhà nước ở Việt Nam mới chỉ ở những bước đầu tiên, ít về số lượng giải pháp AI, cũng như phạm vi, quy mô các cơ quan ứng dụng. Hầu hết các ứng dụng AI hiện có đang hướng tới mục tiêu cải thiện hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, mà chưa chú ý đến mục tiêu phục vụ người dân, trong đó có hỗ trợ người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi.

Không những ít, mà các trường hợp chưa thành công cho thấy, việc ứng dụng AI vào khu vực công chưa sát với năng lực con người, dữ liệu, hạ tầng tính toán của cơ quan, của ngành. Các cơ quan nhà nước đó chưa xác định được “bài toán” cụ thể để thiết kế công cụ AI phù hợp, có thể giúp thực hiện nhiệm vụ của mình. Chẳng hạn như nhiệm vụ là đánh giá sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa dự thảo với các văn bản hiện hành, nhưng đơn vị phụ trách việc xây dựng ứng dụng AI chưa xác định được các tiêu chí cụ thể của “chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung” để doanh nghiệp công nghệ xây dựng trợ lý ảo AI tương ứng.

Thậm chí, sau khi đã “hạ” mức yêu cầu xuống còn “hỗ trợ rà soát, phát hiện các mâu thuẫn về thẩm quyền ban hành”, trợ lý ảo vẫn mắc lỗi, cụ thể là “phát hiện” nhầm việc Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật là trái thẩm quyền. Các đơn vị chuyên môn của cơ quan nhà nước chưa được thu hút tham gia thường xuyên, sát thực vào quá trình xây dựng, huấn luyện AI cùng với đơn vị phụ trách công nghệ và doanh nghiệp công nghệ.

Hơn nữa, như một cán bộ ở tỉnh chia sẻ: chúng tôi làm thế thôi, nhưng có những vấn đề cũng chưa rõ là có được làm không, căn cứ nào, vì chưa có văn bản nào quy định và hướng dẫn cụ thể về ứng dụng AI trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Đó là những vấn đề như: Ứng dụng AI vào những nhiệm vụ nào; hệ thống, công cụ AI nào được sử dụng, loại nào không được sử dụng (ví dụ như đã có chính phủ những nước cấm sử dụng DeepSeek trong hoạt động của cơ quan chính phủ; hoặc cấm sử dụng AI để chấm điểm xã hội đối với công dân); quản trị rủi ro trong ứng dụng AI vào cơ quan nhà nước (rủi ro từ các công cụ, giải pháp AI cho bản thân cơ quan nhà nước, công chức, cũng như rủi ro liên quan đến công dân, doanh nghiệp)...

Giải bài toán ứng dụng AI

Một cách tổng quan, để đưa những trường hợp ứng dụng AI còn ít ỏi trở thành thông lệ chung trong khu vực công ở Việt Nam, cần có chủ trương lớn mở rộng ứng dụng theo từng giai đoạn; xây dựng căn cứ pháp lý, hướng dẫn thực hiện; xác định và giải đúng bài toán; phối hợp chặt chẽ giữa các bên; mở rộng hợp tác công - tư.

Các trường hợp chưa thành công cho thấy, việc ứng dụng AI vào khu vực công chưa sát với năng lực con người, dữ liệu, hạ tầng tính toán của cơ quan, của ngành. Các cơ quan nhà nước đó chưa xác định được “bài toán” cụ thể để thiết kế công cụ AI phù hợp.

Mở rộng ứng dụng AI theo từng giai đoạn: Từ những điểm xuất phát ban đầu, song hành với việc cải thiện hiệu quả, chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong thời gian tới, việc ứng dụng AI cần nhắm tới lợi ích của người dân nhiều hơn, chẳng hạn như trợ lý ảo dùng trong cung cấp dịch vụ công; chú ý đến mục tiêu bảo đảm phát triển bền vững về con người, văn hóa với các giải pháp AI có thể hỗ trợ người khuyết tật, người dân tộc thiểu số trong cung cấp dịch công, tương tác chính quyền - người dân.

Hoặc dùng các công cụ AI để rà soát, phân tích các chính sách, quy định pháp luật từ góc độ giới, phòng ngừa, ứng phó với bạo lực giới trên môi trường số. Có thể xem xét để có lộ trình mở rộng phạm vi ứng dụng AI trong các cơ quan nhà nước theo sự phát triển về năng lực, mức độ sẵn sàng của cơ quan nhà nước về hạ tầng, dữ liệu, nguồn tài chính, con người.

Xây dựng căn cứ pháp lý cho ứng dụng AI: Cần xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý về các vấn đề liên quan đến ứng dụng AI trong khu vực công gồm những nội dung như: quyền, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong ứng dụng AI vào hoạt động của mình, phạm vi ứng dụng AI; các nguyên tắc minh bạch, giải trình, bao trùm; các tiêu chuẩn cho mua sắm, thiết kế, phát triển và sử dụng các hệ thống dựa trên AI; quy trình hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật ứng dụng AI; thiết lập các khuôn khổ đạo đức trong ứng dụng AI để điều chỉnh những ảnh hưởng tiêu cực; xác định các rủi ro và quản trị rủi ro trong ứng dụng AI; những điều không được làm trong ứng dụng AI vào hoạt động của cơ quan nhà nước.

Xác định bài toán và “giải” bài toán ứng dụng AI: Cả những trường hợp thành công và chưa thành công trong ứng dụng AI vào cơ quan nhà nước đều cho thấy, rất cần xác định trúng và giải đúng “bài toán” để triển khai AI trong từng cơ quan nhà nước. Bài toán này được xác định và giải dựa trên phân tích kỹ lưỡng các khía cạnh sau: (1) xác định nhu cầu ứng dụng AI dựa trên các nhiệm vụ cụ thể của cơ quan nhà nước (ví dụ giúp thẩm phán mã hóa bản án); (2) xác định tiềm năng ứng dụng và rủi ro cụ thể của những hệ thống, công cụ AI để thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan nhà nước; (3) năng lực của cơ quan nhà nước về hạ tầng, dữ liệu, con người, nguồn tài chính hiện đang đáp ứng đến đâu các yếu tố để ứng dụng AI.

Việc xác định đúng bài toán ứng dụng AI sẽ giúp ưu tiên chọn “trúng” giải pháp AI thực tế và phù hợp. Trong điều kiện các nguồn lực tài chính, dữ liệu, hạ tầng và con người đều có hạn, cách tiếp cận có mục tiêu, “liệu cơm gắp mắm” này đảm bảo rằng các khoản đầu tư tập trung vào các nhiệm vụ có tiềm năng tích hợp AI mang lại tác động cao nhất. Về lâu dài, cách tiếp cận này cũng sẽ giúp các cơ quan nhà nước mở rộng phạm vi, quy mô ứng dụng AI một cách hiệu quả, sát với điều kiện về tài chính, dữ liệu, hạ tầng, con người.

Phối hợp chặt chẽ: Trường hợp trợ lý ảo cho thẩm phán thành công là nhờ đơn vị phụ trách công nghệ đã làm đầu mối, làm việc thường xuyên với doanh nghiệp công nghệ để triển khai thử nghiệm phần mềm trợ lý ảo; thu hút sự tham gia tích cực của các thẩm phán trong toàn bộ quá trình thiết kế, xây dựng, vận hành, hoàn thiện trợ lý ảo, nhất là đưa ra các tình huống và “đáp án” cho AI “học”. Ngược lại, những trường hợp chưa thành công một phần là do đơn vị phụ trách công nghệ thông tin của cơ quan nhà nước chưa huy động được kiến thức từ các đơn vị chuyên môn để huấn luyện AI.

Như vậy, trong toàn bộ quá trình thiết kế, kiểm thử, phê duyệt, đưa giải pháp AI vào thực tế, đều cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các bên gồm: đơn vị phụ trách công nghệ của cơ quan, địa phương; doanh nghiệp được chọn thực hiện bài toán ứng dụng AI; các đơn vị, cá nhân có chuyên môn sâu thuộc lĩnh vực ứng dụng AI, ví dụ như pháp luật, môi trường, nông nghiệp, y tế, giáo dục.

Mở rộng đối tác công - tư: Thiết lập quan hệ đối tác với các bên tư nhân là rất quan trọng để tận dụng hết tiềm năng của AI vào khu vực công. Ví dụ, tại Pháp, chính phủ nước này đã tài trợ cho chương trình “Ươm tạo AI” (AI Incubator) thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, các công ty khởi nghiệp, các công ty tư nhân và các tổ chức giáo dục để phát triển và chia sẻ các công cụ, giải pháp AI.

Hoặc ở Singapore, 50 cơ quan chính phủ được cấp quyền truy cập miễn phí trong ba tháng vào các bộ công cụ của Google, gồm các GPU hiệu suất cao, nền tảng AI Vertex, các mô hình AI tạo sinh được đào tạo trước, các công cụ chi phí thấp dành cho nhà phát triển. Nhờ đó, các cơ quan có thể xây dựng và thử nghiệm các giải pháp AI của riêng mình trong môi trường được kiểm soát và chuyên dụng trước khi đưa vào ứng dụng.

Ở Việt Nam, điều này càng có ý nghĩa, khi các cơ quan nhà nước còn gặp khó khăn về nguồn lực hạ tầng, dữ liệu, năng lực chuyên môn về AI. Bên cạnh đó, ở Việt Nam lâu nay, các cơ quan nhà nước thường “đặt hàng” các doanh nghiệp lớn hoặc sử dụng hạ tầng, nhân lực của các doanh nghiệp đó để thực hiện các nhiệm vụ về công nghệ thông tin. Trong thời gian tới, nên mở rộng mời thầu các doanh nghiệp tư nhân khác có các giải pháp AI phù hợp. Như kinh nghiệm các nước, có thể xây dựng danh mục các doanh nghiệp công nghệ đáng tin cậy để các cơ quan nhà nước yên tâm hơn trong lựa chọn đối tác thực hiện các giải pháp AI.

Trong căn phòng chưa đến 10 mét vuông thuộc sở thông tin và truyền thông (trước đây) của một tỉnh, chúng tôi nghe các cán bộ, công chức say sưa kể chuyện, cho xem những ứng dụng AI do chính họ đã hoặc đang xây dựng trên màn hình, mặc dù máy móc cũ, tiền vừa ít vừa khó chi tiêu, người “hẻo”. Hoặc là đại diện đơn vị phụ trách chuyển đổi số của TANDTC nhiệt thành chia sẻ đã lên ý tưởng, kết nối các bên xây dựng, thử nghiệm, hoàn thiện trợ lý ảo cho thẩm phán như thế nào. Được gặp gỡ, lắng nghe các anh chị, tôi nghĩ, vậy là đã có những con người với những ý tưởng, tri thức.

Những con người đó cần có chủ trương từ lãnh đạo, được khuyến khích, có căn cứ pháp lý, hướng dẫn, và các điều kiện về dữ liệu, hạ tầng, tài chính, là sẵn sàng đóng góp, cùng giải các bài toán ứng dụng AI trong khu vực công sát với thực tế, đáp ứng yêu cầu về quản lý nhà nước và phục vụ người dân.

Nguyễn Đức Lam

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/ung-dung-ai-trong-khu-vuc-cong-o-viet-nam-nhung-buoc-khoi-dau-tren-con-duong-dai/