Ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu: Bài 1-Nâng mức đóng góp của Việt Nam
Ngày 24/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật của Việt Nam. Theo đó, bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với Kịch bản phát triển thông thường (BAU) quốc gia, tương đương 83,9 triệu tấn CO2tđ. Mức đóng góp 9% này có thể được tăng lên thành 27% so với BAU quốc gia (tương đương 250,8 triệu tấn CO2tđ) khi nhận được hỗ trợ quốc tế thông qua hợp tác song phương, đa phương và các cơ chế trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.
Nhân dịp này, TTXVN giới thiệu chùm 3 bài về “Ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu” phát ngày 6/8.
Bài 1- Nâng mức đóng góp của Việt Nam
Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam xác định các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính giai đoạn 2021-2030, các nhiệm vụ chiến lược về thích ứng với biến đổi khí hậu, các giải pháp thích ứng nhằm giảm thiểu thiệt hại do các tác động liên quan đến những thay đổi của khí hậu gây ra trong tương lai, được xác định cụ thể cho từng lĩnh vực.
Hiểu rõ hơn về Thỏa thuận Paris
Tiến sĩ Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường), cho biết: Thỏa thuận Paris được thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21) năm 2015 và có hiệu lực năm 2016, đã có 189 Bên tham gia, ràng buộc trách nhiệm đóng góp của tất cả các quốc gia tham gia về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, đóng góp tài chính, chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực.
Đây là khuôn khổ pháp lý toàn cầu đầu tiên ràng buộc trách nhiệm của tất cả các bên trong việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững. Nội dung quan trọng nhất của Thỏa thuận Paris quy định việc các Bên tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện NDC; giám sát, đánh giá việc thực hiện và cung cấp nguồn lực tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực để thực hiện NDC. NDC cung cấp những thông tin về đóng góp do một quốc gia sẽ thực hiện nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại và dự báo trong tương lai.
Đến nay, tất cả các Bên tham gia Thỏa thuận Paris đã đệ trình NDC cho Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Tuy vậy, nội dung NDC của các nước rất khác nhau, đưa ra các đóng góp dự kiến phù hợp với bối cảnh của mỗi nước, đồng thời cũng đưa ra các điều kiện để thực hiện các đóng góp đó. Nếu thực hiện toàn diện các NDC, mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu vẫn cao so với thời kỳ tiền công nghiệp khoảng 3 độ C, cao hơn nhiều so với mục tiêu nêu trong Thỏa thuận Paris thực hiện Công ước - hạn chế mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở dưới ngưỡng 2 độ C và tiến tới hạn chế mức tăng nhiệt độ ở mức 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Để thu hẹp thiếu hụt trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, Ban Thư ký UNFCCC đã yêu cầu các quốc gia rà soát và cập nhật NDC, bảo đảm NDC là nỗ lực cao nhất của quốc gia. Việc rà soát và cập nhật NDC phải hoàn thành trong năm 2020 và tiếp tục thực hiện định kỳ 5 năm một lần để gửi Ban Thư ký UNFCCC.
NDC của Việt Nam được đệ trình vào tháng 9/2015. Khi đó NDC của Việt Nam cũng như của các quốc gia khác là mới ở mức dự kiến (Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định - INDC). Thực hiện quy định của COP21 và nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan thực hiện rà soát, cập nhật NDC trên cơ sở điều kiện phát triển của đất nước.
Các bộ, ngành đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực trong quá trình rà soát và cập nhật NDC, cung cấp các thông tin chính thức nhằm đảm bảo các mục tiêu của NDC cập nhật có tính khả thi, thể hiện nỗ lực cao nhất của bộ, ngành, lĩnh vực phù hợp với điều kiện hiện tại và dự báo đến 2030.
Những nội dung NDC của Việt Nam được cập nhật
NDC của Việt Nam được rà soát và cập nhật, bao gồm đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu phù hợp hơn với hiện trạng và dự báo phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đến 2030; bảo đảm mục tiêu thực hiện NDC phù hợp với các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Chiến lược phòng chống thiên tai.
Mặt khác, Việt Nam áp dụng một số yêu cầu mới đối với NDC được thông qua tại Hội nghị COP24 phù hợp với khả năng của nước ta. Đó là: Làm rõ hơn nội dung về tổn thất và thiệt hại, bổ sung những nỗ lực mới nhất của Việt Nam trong thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; đánh giá tác động của việc thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đến phát triển kinh tế - xã hội.
Bổ sung nội dung phân tích về đồng lợi ích giữa thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và phát triển bền vững. Bổ sung các chỉ số phù hợp tạo thuận lợi cho việc theo dõi, đánh giá định kỳ tiến độ thực hiện NDC.
Bổ sung nội dung hệ thống quốc gia về đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) đối với các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hệ thống giám sát và đánh giá (M&E) đối với các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu phục vụ cho việc thực hiện NDC.
Việt Nam cũng làm rõ hơn những thuận lợi, khó khăn và kế hoạch thực hiện NDC trong bối cảnh quốc tế, quốc gia hiện nay và các giải pháp khắc phục.