Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Báo cáo thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403 của MTTQ Việt Nam
Tiếp tục chương trình Phiên họp 25, sáng 16/8, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTƯMTTQVN ngày 15/6/2017 quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Công tác giám sát, phản biện xã hội ngày càng cụ thể hơn, chặt chẽ hơn
Trình bày dự thảo Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT- UBTVQH14-CP-ĐCTUBTW MTTQVN, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh cho biết, sau 5 năm thực hiện NQLT số 403, công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức thành viên ngày càng đi vào chiều sâu, cụ thể hơn, chặt chẽ hơn, phát huy hiệu quả thiết thực, được cấp ủy, chính quyền ghi nhận, đánh giá cao; vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp ngày càng được khẳng định, phát huy trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn có sự phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ trong việc thực hiện các quy định của Nghị quyết; thường xuyên trao đổi, thống nhất trong xây dựng kế hoạch giám sát, phản biện xã hội hằng năm; việc phối hợp, tham gia các Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội...; việc xem xét, trả lời kiến nghị từ kết quả giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội theo quy định của pháp luật.
Về việc thực hiện giám sát bằng hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, ở Trung ương, từ năm 2018 đến năm 2022, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tiến hành giám sát 5 nội dung thông qua hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và chức năng, nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam, đó là giám sát bằng hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản đối với: pháp luật về việc ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ; giám sát Nghị định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30/9/2015 của Chính phủ về giám sát và đánh giá đầu tư liên quan đến Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; giám sát pháp lệnh số 34 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; giám sát Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; giám sát Luật đất đai...
“Các kiến nghị sau giám sát của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đều được Chính phủ trả lời và chỉ đạo các bộ, ngành, liên quan khẩn trương nghiên cứu và có văn bản trả lời Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, nhất là nội dung giám sát các văn bản liên quan đến ưu đãi thuế đối với các Doanh nghiệp khoa học công nghệ”, Phó Chủ tịch Trương Thị Ngọc Ánh nhấn mạnh.
Cũng theo Phó Chủ tịch Trương Thị Ngọc Ánh, ở các tỉnh, thành phố, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã tiến hành giám sát 60.463 cuộc trong đó MTTQ cấp tỉnh giám sát được 2.689 cuộc; MTTQ cấp huyện giám sát 11.638 cuộc và MTTQ cấp xã giám sát 46.136 cuộc bằng hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân trên nhiều lĩnh vực như: giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chủ tịch UBND các cấp; giám sát việc thực hiện chương trình phối hợp vận động và bảo đảm an toàn thực phẩm...
Cùng với đó, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tổ chức 87.356 đoàn giám sát trong đó MTTQ cấp tỉnh giám sát được 1.981 cuộc, MTTQ cấp huyện giám sát 13.213 cuộc và MTTQ cấp xã giám sát 72.162 cuộc. Nội dung giám sát được MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp lựa chọn gắn với các nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh, của từng địa phương được Nhân dân quan tâm, trọng tâm công tác xây dựng đảng, chính quyền; quản lý tài nguyên đất đai; quản lý hành chính; thực hiện trách nhiệm công vụ; lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng; công tác huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực xã hội; công tác phòng, chống Covid-19, thực hiện chính sách an sinh xã hội; bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm; giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chủ tịch UBND các cấp...
Về Hội nghị phản biện, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức được 14 Hội nghị với quy mô lớn và phản biện có chiều sâu. Các dự án Luật, đề án được tổ chức phản biện là những dự thảo văn bản liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của công dân, được Nhân dân quan tâm.
Ở địa phương, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã phản biện xã hội bằng hình thức tổ chức đối thoại trực tiếp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cơ quan, tổ chức có văn bản là 19.714 cuộc; trong đó cấp tỉnh được 255 cuộc, Mặt trận Tổ quốc cấp huyện được 2.324 cuộc; cấp xã được 17.135 cuộc.
Nhiều ý kiến đóng góp, kiến nghị và phản biện của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, được Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao; là cơ sở quan trọng để các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu, bảo đảm các luật, pháp lệnh, nghị quyết được thông qua phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao; các bộ, ban, ngành thực hiện các quy định trên thực tế bảo đảm hiệu quả; góp phần nâng cao hiệu quả công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đạt được, một trong những hạn chế, khó khăn nổi lên trong việc triển khai các hình thức giám sát, phản biện xã hội là một số cấp ủy chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số địa phương, nhất là cấp cơ sở còn lúng túng trong lựa chọn nội dung giám sát. Chất lượng một số cuộc giám sát còn hạn chế. Một số địa phương mới chú trọng hình thức giám sát theo đoàn và phối hợp giám sát, chưa quan tâm đến giám sát theo hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản…
Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trương Thị Ngọc Ánh trình bày dự thảo báo cáo tại phiên họp. Ảnh: Hồ Long
Những tồn tại, hạn chế và đề xuất giải pháp của UBTƯ MTTQ Việt Nam
Bên cạnh đó, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng nhiều nơi còn hạn chế, hình thức; Việc phản biện xã hội theo hình thức đối thoại trực tiếp giữa MTTQ Việt Nam với cơ quan, tổ chức soạn thảo văn bản chưa được thực hiện; Việc theo dõi, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị sau giám sát, theo dõi, đôn đốc, tiếp thu, phản hồi sau phản biện xã hội ở nhiều nơi chưa được chú trọng, chưa có đủ cơ chế, biện pháp, chế tài để thực hiện dẫn đến việc kiến nghị còn một chiều, hình thức, hiệu quả chưa cao; chưa nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với kiến nghị giám sát, phản biện.
Về nhiệm vụ và giải pháp, dự thảo Báo cáo nêu kiến nghị về việc cấp ủy các cấp cần tiếp tục quan tâm, tập trung chỉ đạo, định hướng công tác giám sát, phản biện xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; tăng cường trách nhiệm trong cho ý kiến vào kế hoạch giám sát, phản biện hàng năm và báo cáo kết quả giám sát, phản biện hàng năm của Mặt trận Tổ quốc.
Các bộ, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác giám sát, phản biện xã hội; chủ động thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Liên quan đến kiến nghị sửa đổi Nghị quyết liên tịch số 403, dự thảo Báo cáo đề cập đến việc bổ sung quy định cụ thể về đối tượng của phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, gồm: dự án, dự thảo văn bản QPPL; dự thảo văn bản ban hành chính sách liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp, nghĩa vụ của người dân (các kế hoạch, chiến lược, đề án, chương trình mục tiêu quốc gia, phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch, kế hoạch quốc gia, vùng, địa phương; các chính sách phát triển ngành, lĩnh vực…); quy định đối tượng giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam là đảng viên và tổ chức Đảng cho phù hợp với Quyết định 217-QĐ/TW.
Bổ sung quy định cụ thể thời điểm thực hiện phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản trong quy trình soạn thảo, ban hành văn bản QPPL; Bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi văn bản đề nghị và dự thảo văn bản đến MTTQ cùng cấp để thực hiện phản biện xã hội, cung cấp đầy đủ tài liệu, thông tin liên quan tới dự án dự thảo văn bản, cử lãnh đạo tham gia Hội nghị phản biện để trình bày nội dung của dự thảo và tiếp thu, phản hồi ý kiến phản biện tại Hội nghị; trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, phản hồi ý kiến phản biện của MTTQ đối với dự án, dự thảo văn bản.
Đối với hình thức phản biện xã hội, dự thảo báo cáo cũng đề cập tới việc nghiên cứu để quy định cụ thể và khả thi hơn việc thực hiện hình thức phản biện “Tổ chức đối thoại trực tiếp giữa MTTQ Việt Nam với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến”; Nghiên cứu, điều chỉnh các hình thức giám sát, phản biện phù hợp với yêu cầu, thực tiễn, khả năng thực hiện và điều kiện bảo đảm đối với MTTQ cấp huyện, cấp xã để bảo đảm thực chất, hiệu quả, tránh hình thức.
Cùng với đó, dự thảo báo cáo cũng kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đối với công tác phản biện xã hội các dự án, dự thảo văn bản, chính sách theo hướng tăng cường chỉ đạo của Ủy ban thường vụ Quốc hội tới các cơ quan của Quốc hội trong việc phối hợp các chương trình giám sát giữa hai cơ quan; tăng cường rà soát hồ sơ dự án, dự thảo thẩm tra, hồ sơ trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận, thông qua phải có văn bản phản biện xã hội của MTTQ và văn bản giải trình, tiếp thu ý kiến phản biện của MTTQ;...
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
Quang cảnh phiên họp. Ảnh: Hồ Long
Đa số ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội Ủy ban thường vụ ghi nhận, đánh giá cao tinh thần chủ động của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam trong việc sơ kết, chuẩn bị báo cáo; cho rằng, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403 đã góp phần nâng cao nhận thức các cấp ủy đảng, chính quyền về vị trí, vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Báo cáo cần làm nổi bật được việc giám sát và phản biện xã hội của MTTQ là một hoạt động cơ bản và là một nhiệm vụ quan trọng của MTTQ, các tổ chức thành viên trong tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị. Đồng thời, giám sát, phản biện xã hội là một hoạt động mang tính Nhân dân, tính dân chủ, tính xây dựng và tính khoa học.
Kết luận nội dung làm việc, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị, Chính phủ cần có báo cáo chính thức để MTTQ tổng hợp, trong đó cần đưa ra được các số liệu chứng minh cho kết quả đạt được, chưa đạt để làm căn cứ cho việc đánh giá cả định tính và định lượng về chất lượng, hiệu quả giám sát và phản biện xã hội, đồng thời, nêu rõ những vướng mắc, khó khăn để triển khai thực hiện trong cái thời gian tới.
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành các kiến nghị được nêu trong báo cáo. Tuy nhiên, để có căn cứ, đầy đủ cho việc thực hiện báo cáo, đề nghị Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xây dựng dự thảo Báo cáo chung của 3 cơ quan, nêu bật vai trò giám sát, phản biện của MTTQ trong thời gian qua; đánh giá nhận thức của các cơ quan đối với giám sát, phản biện xã hội trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Đồng thời, tiếp tục gửi xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ bằng văn bản trước khi ký ban hành.