Văn bằng, chứng chỉ số thuận tiện cho người học, dễ dàng tra cứu xác minh

Theo đề xuất của Bộ GD&ĐT, người học sẽ nhận được văn bằng, chứng chỉ số chỉ trong 5 ngày làm việc, kể từ khi có quyết định công nhận tốt nghiệp.

Dự thảo Thông tư ban hành Quy chế văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân thay thế Thông tư số 21/2019/TT-BGDĐT ngày 29/11/2019 ban hành Quy chế quản lý bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm, bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, văn bằng giáo dục đại học và chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân có nhiều điểm mới.

Theo đó, bên cạnh văn bằng truyền thống, người học sẽ nhận được các văn bằng, chứng chỉ số chỉ trong 5 ngày làm việc, kể từ khi có quyết định công nhận tốt nghiệp. Điều này sẽ giúp hiện đại hóa quy trình quản lý, tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch và số hóa.

Văn bằng số thuận tiện cho sinh viên, hạn chế nạn “bằng giả”

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Võ Thái Dân - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc triển khai cấp văn bằng số là bước đi quan trọng trong lộ trình chuyển đổi số của ngành giáo dục.

Với việc áp dụng công nghệ vào quản lý văn bằng, chứng chỉ không chỉ tạo ra sự tiện lợi cho người học, mà còn giảm thiểu rủi ro từ việc sử dụng văn bằng giả. Điều này cũng góp phần quan trọng trong việc giải quyết các thủ tục hành chính nhanh chóng và chính xác hơn.

“Đối với sinh viên, văn bằng số rất tiện lợi, không sợ mất mát, hư hỏng như bản giấy; có thể chia sẻ dễ dàng cho nhà tuyển dụng hoặc dùng để nộp hồ sơ online. Thông tin văn bằng số được xác thực bởi hệ thống thông tin nhà trường một cách minh bạch. Văn bằng số cũng giúp sinh viên không phải công chứng, gửi bản cứng, tiết kiệm được thời gian, chi phí.

Đối với nhà tuyển dụng lao động, văn bằng số giúp xác thực nhanh chóng, có thể dễ dàng tra cứu độ xác thực của bằng cấp chỉ bằng mã QR hoặc hệ thống thông tin trực tuyến. Văn bằng số giúp tăng độ tin cậy, giảm rủi ro tuyển dụng sai người vì bằng cấp giả và hỗ trợ việc số hóa quy trình tuyển dụng.

Nhà trường sẽ chuẩn bị dữ liệu đầy đủ để phục vụ việc cấp phát văn bằng số, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia, bảo đảm thông tin về người được cấp văn bằng chính xác và dễ dàng tra cứu khi cần thiết” – thầy Dân chia sẻ.

 Tiến sĩ Võ Thái Dân - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.

Tiến sĩ Võ Thái Dân - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.

Cùng bàn luận về chủ đề này, Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị cho hay: “Đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc cấp văn bằng, chứng chỉ số trong 5 ngày làm việc thể hiện rõ tinh thần chuyển đổi số toàn diện trong quản lý giáo dục, hướng tới mô hình lấy người học làm trung tâm.

Đây là một bước tiến mạnh mẽ, giúp rút ngắn đáng kể thời gian chờ đợi của sinh viên, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà, đồng thời tăng tính minh bạch và hạn chế tình trạng làm giả văn bằng.

Chính sách này không chỉ giúp người học nhận được văn bằng nhanh hơn mà còn tạo động lực mạnh mẽ để các trường đại học phải chuẩn hóa và số hóa toàn bộ dữ liệu học tập. Đây là bước chuyển từ tư duy “quản lý sau tốt nghiệp” sang “quản lý theo vòng đời người học”, góp phần hiện đại hóa quản trị giáo dục đại học. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đi trước trong lĩnh vực này.

Với người học, lợi ích của việc chuyển sang văn bằng, chứng chỉ số là vô cùng rõ ràng. Trước hết, sinh viên sẽ tiết kiệm thời gian và chi phí, có thể nhận văn bằng điện tử ngay sau khi được công nhận tốt nghiệp mà không cần chờ in ấn, ký duyệt và phát hành bản giấy. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người cần hồ sơ gấp để xin việc, du học.

Thứ hai, văn bằng số dễ dàng xác minh và sử dụng trên phạm vi toàn cầu nhờ có mã định danh, chữ ký số và khả năng tra cứu trên cơ sở dữ liệu quốc gia.

Thứ ba, hệ thống này còn cho phép mỗi sinh viên sở hữu “hồ sơ học tập số” tích hợp toàn bộ quá trình học tập, chứng chỉ ngắn hạn và tín chỉ vi mô – mở đường cho mô hình học tập suốt đời và công nhận kết quả giữa các cơ sở đào tạo”.

 Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị trao bằng tốt nghiệp cho sinh viên. Ảnh: Website nhà trường.

Tiến sĩ Phạm Kim Thư - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu nghị trao bằng tốt nghiệp cho sinh viên. Ảnh: Website nhà trường.

Thầy Thư đưa ra ví dụ, tại Liên minh Châu Âu, hệ thống European Digital Credentials for Learning (EDCL) cho phép cấp và xác thực văn bằng điện tử theo chuẩn blockchain, với thời gian xử lý trung bình chỉ từ 1 đến 3 ngày sau khi công nhận tốt nghiệp.

Singapore triển khai nền tảng OpenCerts – hệ thống blockchain mã nguồn mở của Chính phủ – giúp các trường cấp văn bằng số chỉ trong vài giờ, người học có thể chia sẻ và xác minh ngay lập tức.

Hàn Quốc và Nhật Bản thậm chí đã tích hợp cấp bằng số vào hệ thống định danh quốc gia (Digital ID), giúp dữ liệu học tập đi theo suốt vòng đời nghề nghiệp. So sánh với các mô hình này, mục tiêu cấp văn bằng số trong 5 ngày tại Việt Nam được đánh giá là hợp lý và tiệm cận chuẩn quốc tế, miễn là hệ thống dữ liệu và quy trình được đồng bộ hóa.

Việc áp dụng chuẩn trao đổi dữ liệu tương thích với các nền tảng quốc tế như Europass của EU hay Open Badge của Mỹ sẽ giúp sinh viên Việt Nam dễ dàng chia sẻ chứng chỉ trên các nền tảng nghề nghiệp toàn cầu như LinkedIn, Coursera hay edX, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh việc làm quốc tế.

Nhiều quốc gia đã chứng minh tính hiệu quả của mô hình này: tại Hoa Kỳ, hệ thống Digital Diploma by Blockcerts được áp dụng tại hơn 70 trường đại học như Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) hay Trường Harvard mở rộng; còn ở Úc, nền tảng My eQuals giúp hơn 50 trường đại học phát hành và xác minh văn bằng điện tử được công nhận trên toàn khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Thạc sĩ Nguyễn Vinh San, Trưởng phòng, Phòng Hành chính, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng) cho biết: “Việc số hóa văn bằng, chứng chỉ là xu thế tất yếu trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ của giáo dục hiện nay. Triển khai văn bằng số không chỉ giúp cơ quan quản lý, doanh nghiệp dễ dàng tra cứu, xác minh thông tin nhanh chóng, chính xác, mà còn góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí trong quản lý hồ sơ.

Thực tế, văn bằng giấy hiện nay chỉ được cấp phôi một lần, đòi hỏi người học phải bảo quản cẩn thận và gặp nhiều rủi ro khi thất lạc bản gốc. Trong khi đó, văn bằng điện tử mang lại nhiều lợi ích thiết thực khi không phải thực hiện quy trình xác minh thủ công khi cần đối chiếu thông tin.

Đối với nhà trường, văn bằng số giúp dễ dàng lưu trữ, tra cứu hồ sơ sinh viên, nhờ đó tăng hiệu quả quản lý”.

 Thạc sĩ Nguyễn Vinh San, Trưởng phòng, Phòng Hành chính, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.

Thạc sĩ Nguyễn Vinh San, Trưởng phòng, Phòng Hành chính, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.

Các trường đại học cần chuẩn bị kỹ về hạ tầng kỹ thuật

Theo Tiến sĩ Võ Thái Dân, để triển khai cấp bằng số một cách đồng bộ trên toàn quốc, vẫn còn nhiều yếu tố cần được chuẩn bị kỹ lưỡng.

Hiện nay, phôi bằng vẫn do Bộ Giáo dục và Đào tạo in và phát hành. Nếu chuyển sang bằng điện tử, Bộ cần ban hành quy định thống nhất về phôi bằng số, quy trình ký số, cũng như cơ chế xác thực và công nhận giá trị pháp lý của văn bằng. Ngoài ra, hệ thống kỹ thuật của các trường đại học phải đủ mạnh để đảm bảo tính bảo mật, lưu trữ và truy xuất dữ liệu an toàn.

“Để triển khai hiệu quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hoàn thiện khung pháp lý, tiêu chuẩn kỹ thuật và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bằng, chứng chỉ. Cùng với sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý, các trường đại học cũng cần chủ động đầu tư hạ tầng công nghệ, chuẩn hóa dữ liệu học tập và tập huấn đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu mới” – thầy Dân chia sẻ.

Thầy Nguyễn Vinh San đề xuất cần xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin đủ mạnh, có khả năng xử lý lượng dữ liệu lớn, bảo đảm tính bảo mật, an toàn và tránh nguy cơ giả mạo hoặc xâm nhập trái phép.

Theo thầy, một trong những giải pháp quan trọng là Nhà nước nên phát triển một hệ thống phần mềm dùng chung, thống nhất và có khả năng liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương. Hệ thống này sẽ cho phép các cơ sở giáo dục tạo lập, cấp phát, lưu trữ và tra cứu văn bằng, chứng chỉ điện tử trên cùng nền tảng; đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức, doanh nghiệp và người dân dễ dàng xác minh thông tin, hạn chế tình trạng gian lận, sử dụng văn bằng giả.

Thầy San cũng nhấn mạnh, yếu tố con người đóng vai trò then chốt trong tiến trình chuyển đổi này. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác tập huấn cho cán bộ, giảng viên, nhân viên quản lý trong các cơ sở giáo dục để nắm vững quy trình, thao tác kỹ thuật và quy định pháp lý khi triển khai văn bằng số.

Tiến sĩ Phạm Kim Thư chỉ ra, vấn đề cốt lõi nằm ở mức độ sẵn sàng của hạ tầng công nghệ thông tin và hệ thống dữ liệu học tập tại từng cơ sở đào tạo. Ở những trường đã xây dựng hệ thống quản lý đào tạo tích hợp như LMS, ERP hay SIS, nơi dữ liệu sinh viên và kết quả học tập được số hóa đầy đủ, việc cấp văn bằng trong vòng 5 ngày là hoàn toàn khả thi.

Ngược lại, các trường còn vận hành thủ công, dữ liệu chưa đồng bộ hoặc chưa áp dụng định danh điện tử cho sinh viên sẽ gặp không ít khó khăn, đặc biệt trong các đợt xét tốt nghiệp có số lượng lớn người học.

Để đáp ứng chủ trương mới, các trường đại học Việt Nam cần chuẩn bị đồng bộ trên 3 trụ cột: công nghệ, dữ liệu và quy trình.

Về công nghệ, nhà trường phải xây dựng hoặc tích hợp nền tảng quản lý văn bằng số kết nối trực tiếp với cơ sở dữ liệu quốc gia, đảm bảo khả năng ký số tự động, mã hóa bảo mật và truy xuất trực tuyến qua mã QR hoặc blockchain.

Về dữ liệu, cần chuẩn hóa toàn bộ thông tin sinh viên, học phần, kết quả học tập và quyết định tốt nghiệp; đồng bộ hóa giữa hệ thống quản lý đào tạo (SIS/LMS) với nền tảng cấp văn bằng số.

Còn về quy trình quản lý, mỗi trường cần ban hành quy chế riêng, phân quyền rõ ràng giữa các phòng ban và tập huấn cho cán bộ phụ trách về ký số, xác minh trực tuyến, xử lý sai sót. Cổng tra cứu văn bằng công khai trên website trường cũng là yêu cầu cần thiết để tăng tính minh bạch.

Kinh nghiệm từ các nước tiên tiến cho thấy, các đại học ở Hà Lan, Estonia hay Phần Lan đã xây dựng “Digital Diploma Passport” liên thông dữ liệu giữa trường và cơ quan lao động; Singapore triển khai OpenCerts blockchain mã nguồn mở giúp tiết kiệm chi phí; còn Hàn Quốc yêu cầu mọi trường tích hợp hệ thống cấp bằng vào hạ tầng điện toán đám mây của Chính phủ, đảm bảo bảo mật và truy vết đầy đủ.

“Nhìn tổng thể, việc cấp văn bằng, chứng chỉ số là xu thế tất yếu, mang lại lợi ích rõ rệt cho người học, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả thực chất, tốc độ triển khai cần được điều chỉnh phù hợp với năng lực hạ tầng và mức độ sẵn sàng dữ liệu của từng cơ sở đào tạo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm ban hành chuẩn kỹ thuật thống nhất, hỗ trợ nền tảng dùng chung và lộ trình chuyển đổi trong vòng 2-3 năm, tạo điều kiện để các trường chuẩn hóa dữ liệu, đào tạo nhân lực và hoàn thiện hệ thống.

Về phía các trường, đây chính là cơ hội để nâng cấp quản trị đại học theo hướng dữ liệu, minh bạch và hiện đại – một bước đi cần thiết để giáo dục Việt Nam hòa nhịp cùng xu thế số hóa toàn cầu” – thầy Thư bày tỏ.

Trần Trang

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/van-bang-chung-chi-so-thuan-tien-cho-nguoi-hoc-de-dang-tra-cuu-xac-minh-post255385.gd