Vận hành hệ thống điện năm 2022 đầy thách thức
Tổng sản lượng thủy điện năm 2022 dự kiến là 82,5 tỷ kWh, cao hơn 3,8 tỷ kWh so với năm 2021. Các nguồn điện truyền thống dự kiến vào vận hành năm 2022 là 3.407 MW, bao gồm các nhà máy nhiệt điện lớn (600 MW/tổ máy) như Nghi Sơn 2 và Sông Hậu 1.
Tại Hội nghị tổng kết năm 2021 và triển khai kế hoạch năm 2022 của Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia (A0) diễn ra sáng 10/1, Phó Giám đốc Nguyễn Quốc Trung cho biết, theo Quyết định số 3063/QĐ-BCT ngày 31/12/2021 của Bộ Công Thương về việc phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện Quốc gia năm 2022, tổng điện năng sản xuất của các nhà máy điện (tại đầu cực máy phát) và nhập khẩu toàn quốc (bao gồm cả sản lượng điện mặt trời mái nhà) năm 2022 dự kiến đạt 275,5 tỷ kWh, tăng 7,9% so với năm 2021.
Theo đó, tổng sản lượng thủy điện dự kiến là 82,5 tỷ kWh, cao hơn 3,8 tỷ kWh so với năm 2021. Các nguồn điện truyền thống dự kiến vào vận hành năm 2022 là 3.407 MW, bao gồm các nhà máy nhiệt điện lớn (600 MW/tổ máy) như Nghi Sơn 2 và Sông Hậu 1. Trong năm 2022 không bổ sung nguồn điện gió, điện mặt trời trang trại và điện mặt trời mái nhà.
Ngoài ra, khả năng cấp khí cho sản xuất điện năm 2022 trong những ngày bình thường từ nguồn khí Đông Nam Bộ đạt từ 13,5 - 14,5 triệu m3 khí/ngày, khí Tây Nam Bộ đạt từ 3,9 - 4,5 triệu m3/ngày. Năm 2022 dự kiến mua điện Trung Quốc với sản lượng khoảng 380 triệu kWh trong các tháng 5, 6.
Đối với miền Bắc, trong năm 2022, phụ tải đỉnh miền Bắc dự kiến tăng trưởng 9,5 - 13%, tương đương nhu cầu tăng thêm 2.497 - 2.870 MW/năm. Trong bối cảnh không có nhiều nguồn mới bổ sung, miền Bắc sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro thiếu hụt công suất đỉnh, đặc biệt trong các tháng nắng nóng cao điểm (5 - 6 - 7).
Với thực tế này, A0 đã đề xuất các biện pháp nâng cao khả năng cấp điện cho miền Bắc trong năm 2022 như: Điều chỉnh lịch sửa chữa; Thay đổi kết dây khu vực Nghi Sơn khi cần thiết để tận dụng tối đa khả năng cấp điện của nhà máy Nghi Sơn 2 cho miền Bắc; Đề xuất và tính toán mua điện Trung Quốc theo chỉ đạo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và đẩy mạnh triển khai chương trình Điều chỉnh phụ tải điện (DR).
Về chi phí phát điện năm 2022, theo Phó Giám đốc Nguyễn Quốc Trung, hiện tại các mỏ khí giá rẻ đang ngày càng suy giảm. Các mỏ khí giá đắt được đưa vào khai thác đồng thời với chính sách các nhà máy điện khí BOT vẫn tiếp tục được áp dụng giá khí bao tiêu, dẫn tới đẩy chi phí các mỏ khí mới vào các nhà máy điện khí khác cùng khu vực, ảnh hưởng tới chi phí điện toàn hệ thống.
Bên cạnh đó, ngay cả khi đã đóng điện đủ các công trình mới để đảm bảo cung cấp điện cho những trung tâm phụ tải quan trọng như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cũng như giải tỏa nguồn năng lượng tái tạo (NLTT), nhiều máy biến áp 500kV đầy tải ngay trong chế độ vận hành bình thường.
Đặc biệt, hệ thống điện miền Bắc có nguy cơ thiếu công suất đỉnh ở mức khoảng 1.590MW với phương án công suất Pmax tăng trưởng 9,5%, và khoảng 2.770MW với phương án Pmax tăng trưởng 15% trong các tháng cao điểm mùa khô.
“Vấn đề giải tỏa các nguồn NLTT trong năm 2022 vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, do lưới điện chưa đáp ứng kịp so với lượng nguồn NLTT đã được đưa vào vận hành trong các năm vừa qua” – ông Nguyễn Quốc Trung thông tin.
Cụ thể tại các khu vực: Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum, Gia Lai, Ninh Thuận, Bình Thuận, Cà Mau, Bạc Liêu. Ngoài ra, với tỷ lệ nguồn NLTT đưa vào vận hành ngày càng cao, vấn đề ổn định hệ thống điện trong vận hành thời gian thực là một thách thức lớn.
Như vậy, để đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn vận hành, an toàn, tin cậy và kinh tế hệ thống điện thì việc tính toán, vận hành hệ thống điện quốc gia nói chung và miền Bắc nói riêng trong năm 2022 sẽ tiếp tục có nhiều thử thách đối với Điều độ Quốc gia nói riêng và EVN nói chung.
Trở lại năm 2021, là một năm vận hành với nhiều biến động và khó khăn của hệ thống điện Quốc gia. Mặc dù vậy, ông Nguyễn Quốc Trung cho biết, với sự chỉ đạo sát sao của EVN, A0 và các Trung tâm Điều độ HTĐ miền đã vận hành hệ thống điện và thị trường điện năm 2021, đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định, đặc biệt trong các dịp lễ Tết, các ngày diễn ra sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội quan trọng của đất nước.
Tổng nguồn điện mới đưa vào vận hành năm 2021 là 7.433MW, nâng tổng công suất đặt HTĐ Quốc gia lên 78.682MW; trong đó bao gồm 75 nhà máy điện gió với tổng công suất khoảng 3.600 MW. Đến cuối năm 2021, tổng số nhà máy điều độ quốc gia nắm quyền điều khiển là 337, tăng 73 nhà máy so với năm 2020.
Hiện có 104 nhà máy tham gia trực tiếp trong thị trường điện với tổng công suất đặt 27.990MW, chiếm 36,8% tổng công suất đặt các nhà máy điện. Trong năm có thêm 4 nhà máy mới tham gia thị trường với tổng công suất 372MW.
Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn tham gia thị trường điện so với tổng công suất đặt hệ thống lại giảm xuống còn 36,8%, do đa phần các nguồn mới vận hành là nguồn không phải đối tượng hoặc chưa tham gia thị trường điện.
Ngoài ra, điều độ quốc gia còn đóng điện nghiệm thu nhiều công trình đường dây và trạm biến áp (TBA) quan trọng trên lưới điện 500kV như: Đóng điện mới 8 máy biến áp với tổng dung lượng 4.387 MVA; Nâng công suất 5 máy biến áp với tổng dung lượng 3.900 MW; Đóng điện mới 14 đường dây 500kV với tổng chiều dài 2.022 km. Đây là các công trình trọng điểm của HTĐ Quốc gia trong năm 2021, góp phần quan trọng vận hành hệ thống điện an toàn và ổn định và giải tỏa công suất cho nguồn NLTT, mang lại hiệu quả kinh tế và chính trị to lớn. Đồng thời đóng mới 203 máy biến áp 220kV - 110kV với tổng dung lượng 13.016 MVA; đóng mới 236 đoạn đường dây 220kV - 110kV với tổng chiều dài 3.450 km.
Điều độ quốc gia đã vận hành hệ thống điện an toàn, liên tục, đặc biệt trong các giai đoạn khó khăn như nắng nóng cao điểm mùa khô tại miền Bắc; các cơn bão lớn số 5, số 6, số 7, số 13 trong giai đoạn mùa lũ tại miền Trung; khối lượng lớn công việc liên quan tới đóng điện công trình mới nguồn năng lượng tái tạo và các công trình lưới điện hỗ trợ giải tỏa công suất nguồn, nhất là trong giai đoạn cao điểm cuối năm 2021.
Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/se-khong-bo-sung-nguon-dien-gio-dien-mat-troi-vao-nam-2022.html