Vận hành thị trường vàng hiệu quả: Bắt đầu từ minh bạch

Sau 13 năm, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng vẫn còn nguyên giá trị khi loại bỏ vàng ra khỏi đời sống tín dụng ngân hàng cũng như ngăn ngừa 'vàng hóa' nền kinh tế. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để hướng nguồn lực này vào sản xuất kinh doanh thay vì cất trữ và ẩn giấu trong các giao dịch bất minh' thì vẫn chưa có câu trả lời...

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Từ năm 2012 về trước, cụm từ “vàng hóa nền kinh tế” không hề xa lạ. Vàng có mặt trong các giao dịch mua nhà, đất, xe và vay mượn. Nghị định 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999 giới hạn Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý nhà nước về vàng tiền tệ tại kho dự trữ ngoại hối; còn vàng phi tiền tệ (vàng miếng, trang sức) được tự do giao dịch như hàng hóa thông thường.

Ngày 13/10/2000, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định 432/2000/QĐ-NHNN, “tín dụng vàng” mặc nhiên được thừa nhận ở các ngân hàng thương mại và điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, trong quan hệ “tiền – hàng”, vàng ngự trị như một phương tiện thanh toán bên cạnh VND và USD; đồng thời, được chính thức hóa trong hoạt động tín dụng ngân hàng.

Với hành lang cơ chế quản lý như vậy, các ngân hàng được tự do kinh doanh, huy động, cho vay vàng vật chất, thậm chí cả vàng tài khoản. Thời điểm đó, các sàn vàng tài khoản như nấm từ ngân hàng đến các website ngoài thị trường.

"ĐÒN ĐAU" CẦN NHỚ LÂU?

Có lẽ, “vàng hóa nền kinh tế” vẫn tiếp tục như vậy, tất cả chủ thể tham gia đều hài lòng với các khoản lợi nhuận thu về nếu không có cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ vào năm 2007, đẩy tất cả vào vòng xoáy. Ở đó, giá vàng, giá USD nhảy múa, thanh khoản vàng ở ngân hàng đứt đoạn, nhập lậu tràn lan, kèm theo là rủi ro dần lộ diện, đưa ít nhất 5 ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân đứng đầu hệ thống chao đảo vì vàng.

Giai đoạn 2007 - 2009, độ mở của kinh tế Việt Nam với thế giới ngày càng lớn. Năm 2009, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 125,4 tỷ USD, chiếm 119,89% GDP (GDP năm 2009 là 104,6 tỷ USD), các dòng vốn đầu tư nước ngoài bao gồm cả FDI và FII chảy vào khá mạnh. Bởi vậy, hầu như mọi biến động thị trường tài chính, giá hàng hóa trên thế giới đều được “nhập khẩu” vào Việt Nam.

Riêng với giá vàng nguyên liệu thế giới, đầu tháng 9/2009, tăng vọt lên mức 1.227,50 USD/ounce. Các chuyên gia lúc đó nhận định giá vàng thế giới tăng do ba nguyên nhân chính: (i) các ngân hàng trung ương tăng cường mua vào; (ii) giá trị đồng USD suy giảm; (iii) áp lực mua đầu cơ của các quỹ đầu tư gia tăng; (iv) đặc biệt là lo ngại lạm phát.

TS Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

"Theo ước tính, trước khi chấm dứt hoạt động sàn vàng và Nhà nước độc quyền xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu và sản xuất vàng miếng, mỗi năm bình quân thị trường Việt Nam nhập khẩu 100 tấn vàng, trong đó có tới 70 tấn vàng nhập lậu, tương đương 3,5 tỷ USD".

Ở trong nước, ngày 11/11/2009, lần đầu tiên trong lịch sử, giá vàng miếng đạt đỉnh 29,3 triệu đồng/lượng, sau đó ít ngày là 29,10 triệu đồng/lượng, cao hơn giá thế giới 4-5 triệu đồng/lượng. Giới phân tích cho rằng, sở dĩ con số chênh lệch giá cao như vậy là bởi từ năm 2008, Chính phủ ngừng cấp phép nhập khẩu kim loại quý để bảo đảm các cân đối vĩ mô, trong đó có tỷ giá.

Khi giá vàng tăng đã đẩy những ngân hàng có tỷ trọng vàng vật chất, vàng tài khoản lớn trên bảng cân đối tài sản vào tình thế điêu đứng. Lý do là trước đó, giá vàng ở mức thấp, ví dụ năm 2007, giá mua/bán vàng miếng SJC chỉ khoảng 1.255 nghìn đồng - 1.290 nghìn đồng/chỉ, tương ứng 12.550 nghìn – 12.900 nghìn đồng/lượng (10 chỉ bằng 1 lượng vàng), nhưng đến năm 2009, giá vàng lên tới trên 29,3 triệu đồng/lượng, tăng 2,38 lần; năm 2011, trước khi ra đời Nghị định 24 và các ngân hàng đang trong những ngày phải tất toán trạng thái vàng huy động về 0 (trước 30/6/2013), giá vàng đạt 42,6 triệu đồng/lượng, gấp 3,44 lần, thậm chí hơn so với năm 2007.

Không một ngân hàng nào dự báo được viễn cảnh giá vàng ở mức cao như vậy. Trước đoàn người rồng rắn đòi rút vàng ở mỗi đầu ngày, nhiều ngân hàng lần lữa hẹn để xoay xở khi giá gấp hơn 2 lần so với vài năm trước. Tệ hại hơn, khi càng cố mua, tâm lý thị trường bị kích động, giá càng leo thang không thể kiểm soát, đưa thị trường vàng thành “ngựa bất kham” trong các năm 2009 – 2012.

Thời điểm đó, cơ quan chức năng cũng xác định là một trong những yếu tố gây tác hại nhiều nhất đến tỷ giá, dẫn đến Ngân hàng Nhà nước luôn trong tình trạng bán ngoại tệ để cân bằng.

TS. Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, phân tích việc nới lỏng quản lý đối với vàng phi tiền tệ đã gây nên các tác động tiêu cực, nhất là trong thời điểm giá vàng biến động mạnh. Các đối tượng có hành vi làm giá, đầu cơ gây khan hiếm cung giả tạo; đồng thời, tung tin đồn gây nên các “cơn sốt vàng” làm cho người dân tập trung đi mua vàng.

Khi giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới, ngay lập tức xuất hiện tình trạng thu gom ngoại tệ trên thị trường tự do để nhập lậu vàng nguyên liệu, sản xuất vàng miếng từ nguồn vàng nhập lậu, từ đó gây ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá, thị trường ngoại tệ.

NGHỊ ĐỊNH 24 GIẢI QUYẾT NHỮNG MỤC TIÊU GÌ?

Trước thực tế này, Ngân hàng Nhà nước đã tham mưu và ngày 3/4/2012, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (có hiệu lực ngày 25/5/2012) với một số mục tiêu khá rõ nét: (i) giải quyết đứt thanh khoản vàng ở một số ngân hàng; (ii) quốc gia hóa và nhà nước độc quyền thương hiệu vàng miếng SJC (chiếm trên 90% thị phần vàng miếng); (iii) độc quyền xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu; (iv) có lộ trình “đẩy đuổi” vàng ra khỏi hoạt động ngân hàng, nghiêm cấm tín dụng và các hình thức huy động vàng khác, chấm dứt sàn giao dịch vàng; (v) việc mua, bán vàng miếng chỉ được thực hiện tại những tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cấp phép…

Trong số những mục tiêu nêu trên, việc nhập khẩu vàng giải quyết thanh khoản vàng cho các ngân hàng là vấn đề đau đầu nhất, trong bối cảnh dự trữ ngoại hối rất mỏng. Ngân hàng Nhà nước chưa từng chính thức công bố đã nhập khẩu bao nhiêu tấn vàng; tuy nhiên, theo một số chuyên gia, lúc đó Ngân hàng Nhà nước nhập khẩu 70 – 75 tấn vàng nguyên liệu.

Thực tế cho thấy, Ngân hàng Nhà nước liên tục tổ chức các phiên đấu thầu vàng thông qua quy trình đấu thầu tại Thông tư số 06/2013/TT-NHNN ngày 12/3/2013. Phiên đấu thầu đầu tiên trúng 2 nghìn lượng nhưng các phiên tiếp theo khối lượng trúng thầu tăng lên tới 25,7 nghìn lượng, thậm chí 39,2 nghìn lượng. Số liệu Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến 3/5/2013, thông qua nguồn cung vàng từ đấu thầu của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng có nghiệp vụ “tín dụng vàng” tất toán 80% số dư huy động vốn bằng vàng. Nhìn chung, trước ngày 30/6/2013, các ngân hàng hoàn thành tất toán 100% số vàng đã huy động.

Việc ngắt vàng (vật chất và tài khoản) khỏi hoạt động ngân hàng, không chỉ trả lại sự lành mạnh cho các ngân hàng trong chức năng phân bổ nguồn lực tiết kiệm đến đầu tư đối với nội tệ, mà tỷ giá cũng ổn định trở lại. Bởi lẽ, trước khi Nghị định 24 ra đời, khi nhận thấy giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới, không ít doanh nghiệp được phép sản xuất vàng miếng đã gom ngoại tệ trên thị trường tự do nhập lậu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng trái phép.

Đặc biệt, khi thị trường vàng được kiểm soát chặt chẽ, tỷ giá cũng ổn định trở lại và tình trạng này kéo dài từ năm 2013 đến nay.

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy, sau nhiều năm thực hiện Nghị định 24, mối quan hệ giữa giá vàng và giá USD trở nên mờ nhạt, khác hẳn giai đoạn trước khi Nghị định này ra đời. Ngoài ra, từ năm 2012 đến nay, tỷ giá và lạm phát hoàn toàn nằm trong hoặc thấp hơn mục tiêu Quốc hội giao Chính phủ.

Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2020 đến nay, sau khi thế giới thoát khỏi đại dịch Covid-19, kinh tế toàn cầu trải qua rất nhiều biến cố và ảnh hưởng sâu sắc tới giá vàng. Trong một báo cáo mới đây trình Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đầu năm 2025, giá vàng thế giới liên tục phá vỡ mức kỷ lục trước đó.

Nguyên nhân chủ yếu khiến giá vàng quốc tế tăng là do: (i) bất ổn chính trị, xung đột quân sự, cạnh tranh chiến lược gia tăng trên phạm vi toàn cầu như xung đột quân sự Nga - Ukraine kéo dài, kéo theo đó là các biện pháp trừng phạt, trả đũa lẫn nhau về kinh tế, chính trị giữa Nga với Mỹ và đồng minh; xung đột quân sự giữa Israel và các quốc gia, lực lượng Hồi giáo tại Trung Đông; (ii) nhiều ngân hàng trung ương và quỹ đầu tư đẩy mạnh mua vào vàng để bổ sung dự trữ ngoại hối cũng là lý do quan trọng khiến giá vàng tăng; (iii) Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố mức thuế đối ứng cao với các quốc gia trên thế giới đã tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư và tăng trưởng kinh tế thế giới, khiến dòng tiền của nhà đầu tư có xu hướng đổ vào vàng…

Trong nước, giá vàng miếng SJC diễn biến cùng chiều với giá thế giới. Với các giải pháp quản lý đồng bộ, cho tới đầu tháng 4/2025, chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới tiếp tục được kiểm soát và duy trì ở biên độ khoảng 3-5 triệu đồng/lượng (tương đương khoảng 5-7%); có thời điểm chỉ còn trên dưới 1 triệu đồng/lượng (tương đương khoảng 1-2%) vào đầu năm 2025. Đến ngày 23/4/2025, chênh lệch giá vàng miếng SJC trong nước và thế giới quy đổi ở mức xấp xỉ 14,48 triệu đồng/lượng (tương đương khoảng 13,62%).

Tại thời điểm này, một loạt vấn đề lại được đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước, đó là: (i) giảm chênh lệch giá vàng giữa trong và ngoài nước; (ii) cho phép đưa vàng vào giao dịch trên sàn vàng, sàn hàng hóa; (iii) khơi thông nguồn lực vàng phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, cũng không ít ý kiến cực đoan cho rằng Nghị định 24 đã “hoàn thành sứ mệnh”, cần “chấm dứt hiệu lực”, “mở cửa cho nhập khẩu vàng trở lại theo nhu cầu thị trường”…

MINH BẠCH "TÀI SẢN" VÀNG

Theo phân tích của nguyên phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại nhà nước, so với các quốc gia có quy mô kinh tế tương đương trong khu vực (Indonesia, Thái Lan, Malaysia), dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện đang ở mức thấp hơn, cả về giá trị tuyệt đối và tỷ lệ bao phủ nhập khẩu. Trong khi đó, nền kinh tế còn phụ thuộc mạnh vào nhập khẩu năng lượng, nguyên liệu sản xuất (dệt may, điện tử…), khiến áp lực lên dự trữ ngoại hối càng lớn.

Sự biến động của kinh tế thế giới, đặc biệt chính sách thuế và thương mại của Mỹ (dưới thời Donald Trump), đã tác động mạnh đến cán cân thanh toán của Việt Nam. Việc duy trì dự trữ ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu như máy móc, công nghệ trở nên cấp bách hơn nếu so sánh với nhu cầu nhập khẩu vàng để sản xuất ra vàng miếng .

Thử hình dung, một ngân hàng hoặc bất cứ chủ thể nào huy động hay vay 1 cây vàng lúc giá gần 12,3 triệu đồng/lượng và trót bán để kiếm lời; tuy nhiên 2 năm sau, giá vàng tăng 2,38 lần; sau 3 năm giá lên 42,6 triệu đồng/lượng, bên gửi vàng chỉ đòi vàng, không lấy tiền. Ở vào tình cảnh này, không nói ai cũng hiểu ngân hàng quẫn bách như thế nào.

Trong một thời gian dài, thị trường vàng đã bị méo mó bởi các hành vi lũng đoạn mà 6 kết luận thanh tra của Ngân hàng Nhà nước mới đây đã chỉ ra.

Một luồng ý kiến đáng chú ý cho rằng nhu cầu tích trữ vàng miếng không chỉ xuất phát từ “nỗi lo lạm phát”, cần dự trữ tài sản, mà còn từ các cá nhân muốn che giấu tài sản bất minh. Trong bối cảnh Chính phủ đẩy mạnh công khai, minh bạch hóa tài sản (yêu cầu kê khai tài sản, nguồn thu nhập…), tiền mặt và bất động sản trở thành tài sản “dễ bị truy vấn”, trong khi vàng miếng (không đăng ký sở hữu) lại kín đáo hơn.

Trong thực tế, tiền gửi tại ngân hàng hay chứng khoán đều có thông tin dữ liệu đầy đủ, ngay cả bất động sản cũng được quản lý cơ sở dữ liệu đất đai.

Riêng vàng (vàng miếng, vàng nhẫn) không cần đăng ký, giao dịch bằng tiền mặt, dễ trao tay, chúng cũng không hề có số series như là xe máy hay ô tô.

Do vậy, vàng trở thành “kho giấu tài sản” lý tưởng cho nhóm sở hữu tài sản khó minh bạch. Hàng loạt quy định đang được siết chặt (Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Kê khai tài sản), nhưng vàng – vốn nằm ngoài hệ thống tài sản đăng ký - thì vẫn ở trong tình trạng “vô thừa nhận” của luật pháp.

Buôn lậu vàng không chỉ xuất phát từ nhu cầu kinh tế, mà còn phục vụ nhu cầu “rửa tiền” đối với tài sản không minh bạch. Nhiều vụ việc thời gian qua cho thấy các đường dây buôn lậu vàng lên tới hàng trăm kg.

Để lành mạnh thị trường vàng, đồng thời thúc đẩy công cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiệu quả hơn, cần nghiên cứu giao dịch vàng qua tài khoản, đồng thời kết nối thông tin giữa tài khoản ngân hàng, bất động sản và tài khoản vàng theo mã số định danh cá nhân.

Mọi giao dịch mua, bán vàng đều hạch toán ghi nhận và theo dõi trên tài khoản vàng của từng cá nhân, từ đó cho phép dễ dàng truy xuất nguồn gốc tài sản.

Trong 6 kết luận thanh tra thị trường vàng vừa qua đối với 6 đơn vị, rất ít người chú ý đến hành vi giao dịch vàng giữa cá nhân với tổ chức với số lượng vàng rất lớn dù nhân thân cá nhân đó không liên quan nhiều đến khả năng có một khối lượng tài sản khổng lồ. Liệu đây có phải là hành vi hợp thức hóa nguồn vàng nhập lậu và rửa tiền?

Nguyên Phó Tổng giám đốc ngân hàng nói trên cho biết: "Trước khi bàn đến chuyện khơi thông nguồn lực vàng ở tổ chức, dân cư, điều cần thiết đầu tiên là phải minh bạch. Những người sở hữu vàng đều phải được định danh tài sản này dưới bất kỳ hình thức nào. Hai năm gần đây, những người sở hữu vàng mua từ nguồn bốn ngân hàng thương mại nhà nước, chỉ cần gõ đúng số series, sẽ hiện ra toàn bộ thông tin cơ bản của người sở hữu”<...>

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 23-2025 phát hành ngày 09/06/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Nguyễn Hoài

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/van-hanh-thi-truong-vang-hieu-qua-bat-dau-tu-minh-bach.htm