Văn hóa và con người lan tỏa khát vọng vươn mình của Việt Nam
Phát triển bền vững văn hóa và con người như nền tảng cho mọi tiến bộ xã hội; xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong thời đại mới; văn hóa và con người là trục xuyên suốt của phát triển, là nền tảng cho giáo dục, khoa học, kinh tế và khởi nghiệp.
Đây là những vấn đề đang được đặt ra, không chỉ góp phần hoàn thiện khung lý luận về phát triển bền vững dựa trên nền tảng văn hóa và con người, mà còn đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước trong kỷ nguyên hội nhập – vươn mình.
Phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình

Chuỗi hoạt động văn hóa kỷ niệm 65 năm Ngày giải phóng Thủ đô và 20 năm Hà Nội được UNESCO vinh danh “Thành phố vì hòa bình”. Ảnh tư liệu: Danh Lam/TTXVN
Việt Nam sau 80 năm lập nước và 40 năm đổi mới, đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, mở ra một thời kỳ mới cho xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước: hội nhập – vươn mình.
Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Trần Ngọc Thêm, nhà nghiên cứu hàng đầu về văn hóa Việt Nam, cho rằng: trong khi hội nhập là con đường phát triển thì vươn mình là khát vọng phát triển. Nếu hội nhập là con đường, vươn mình là khát vọng, thì văn hóa và con người là linh hồn của sự phát triển và nguồn sức mạnh để biến khát vọng ấy thành hiện thực.
“Trong kỷ nguyên hội nhập - vươn mình, văn hóa - linh hồn của sự phát triển - là bản sắc, là trí nhớ, là hệ gene tinh thần của dân tộc bảo đảm cho việc hội nhập có bản sắc, có chiều sâu, và có định hướng nhân văn, giúp dân tộc “hòa nhi bất đồng”- hội nhập mà không hòa tan, tiếp thu tinh hoa nhân loại nhưng vẫn giữ được căn tính dân tộc”, Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Trần Ngọc Thêm nhấn mạnh khi chia sẻ tại Hội thảo khoa học quốc tế “Văn hóa và con người trong kỷ nguyên hội nhập – vươn mình”, do Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 19-20/12.
Cũng theo vị Giáo sư đầu ngành về Văn hóa học: “Trong kỷ nguyên hội nhập - vươn mình, con người với tri thức, đạo đức và năng lực sáng tạo là chủ thể và mục tiêu của sự phát triển. Trong kỷ nguyên đó, con người không chỉ là công dân của một quốc gia, mà còn là “công dân toàn cầu” có bản lĩnh văn hóa dân tộc, biết dung hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại, giữa cái riêng và cái chung. Nhờ vậy, con người trở thành nguồn sức mạnh quyết định thành công hay thất bại của tiến trình hội nhập - vươn mình”.
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng nêu rõ: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn với xây dựng, hoàn thiện con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đây là sự hoàn thiện, bổ sung về nhận thức, lý luận và đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề văn hóa và con người Việt Nam xuyên suốt qua nhiều kỳ đại hội, đặc biệt trong giai đoạn 40 năm đổi mới. Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của quá trình phát triển đất nước”; trong đó nhấn mạnh yêu cầu “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Triệu Thế Hùng - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số và trí tuệ nhân tạo, văn hóa và con người đang đứng trước cả thời cơ lớn lẫn những thách thức chưa từng có. Những biến đổi này không chỉ làm thay đổi phương thức sản xuất, quản trị xã hội, mà còn tác động trực tiếp đến hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức, lối sống và bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng.
“Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp thiết: phát triển văn hóa phải đi trước, đi cùng và soi đường cho phát triển, lấy con người làm trung tâm, chủ thể và mục tiêu của mọi chính sách phát triển. Phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, chiến lược, chương trình phát triển văn hóa và con người, bảo đảm tính đồng bộ giữa kinh tế – văn hóa – xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội”, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Triệu Thế Hùng nhấn mạnh.
Phát huy vai trò của nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo

Đoàn viên Thanh niên thành phố Bắc Giang hướng dẫn du khách quét mã QR tìm hiểu về di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Xương Giang. Ảnh: Danh Lam/TTXVN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, giữ gìn bản sắc văn hóa gắn liền với phát triển con người trở thành yếu tố then chốt. Theo các chuyên gia, trong kỷ nguyên hội nhập - vươn mình, con người Việt Nam và nền văn hóa Việt Nam vừa là điểm tựa, vừa là động lực cốt lõi cho sự phát triển bền vững. Không có một quốc gia hội nhập thành công nếu đánh mất bản sắc. Không có một sự vươn mình bền vững nếu con người không được đặt ở vị trí trung tâm.
Nếu hội nhập là con đường, vươn mình là khát vọng, thì văn hóa và con người là linh hồn của sự phát triển và nguồn sức mạnh để biến khát vọng ấy thành hiện thực. Nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo đóng vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển đổi hướng tới một mô hình phát triển bền vững, dựa trên tri thức, bản sắc và sự đổi mới. Nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo đóng góp vào tăng trưởng kinh tế xanh và bao trùm; thúc đẩy bản sắc văn hóa và gắn kết cộng đồng; tăng cường đổi mới sáng tạo và liên ngành; góp phần vào thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs); và đóng góp vai trò cầu nối trong hội nhập quốc tế.
Theo nghiên cứu của Tiến sỹ Thái Trí Dũng và các cộng sự tại Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển cả về kinh tế, xã hội lẫn môi trường. Trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi số, việc đầu tư cho lực lượng này không chỉ là chiến lược tăng trưởng kinh tế mới mà còn là yếu tố duy trì bản sắc văn hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng cường khả năng thích ứng của nền kinh tế.
Nghiên cứu của nhóm chuyên gia cũng chỉ ra thực trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao và bất cập trong đào tạo thời gian vừa qua. Việt Nam hiện có gần 51 triệu người trong độ tuổi lao động, với hơn 65% dân số dưới 40 tuổi - một lợi thế lớn về cơ cấu dân số vàng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn hóa – sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn đang là điểm nghẽn. Một số thống kê cho thấy chỉ khoảng 10% nhân lực trong ngành công nghiệp sáng tạo được đào tạo chính quy chuyên sâu, phần lớn còn lại là học theo kinh nghiệm hoặc đào tạo lại tại nơi làm việc. Chính sách về thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa và nguồn nhân lực sáng tạo cũng chưa đồng bộ và thiếu cơ chế hỗ trợ. Tình trạng chảy máu chất xám nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo cũng là một thực trạng đáng lưu ý.
Để phát triển nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo tại Việt Nam, hạt nhân dẫn dắt phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam, giúp lan tỏa khát vọng vươn mình của Việt Nam trong thế kỷ XXI, các chuyên gia cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển nhân lực sáng tạo; đổi mới giáo dục và đào tạo nhân lực văn hóa – sáng tạo; đồng thời thúc đẩy hợp tác công – tư và xã hội hóa nguồn lực đầu tư. Quan trọng nhất, theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Lê Chi Lan (Trường Đại học Sài Gòn), phát huy vai trò của giáo dục không chỉ là yếu tố quyết định cho phát triển bền vững, mà còn là động lực quan trọng giúp Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Khẳng định vai trò trung tâm của con người sáng tạo, không chỉ như người lao động, mà như tác nhân văn hóa, xã hội và đổi mới trong nền kinh tế tri thức, từ đó đặt ra yêu cầu đầu tư phát triển đồng bộ, xứng tầm, có chất lượng nguồn nhân lực văn hóa – sáng tạo là giải pháp cần thiết để Việt Nam có thể vừa hội nhập, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc trong quá trình phát triển.











