Văn học nghệ thuật dân gian các dân tộc thiểu số: Bản sắc và cảm hứng sáng tạo
Không chỉ là ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, trường ca hay điệu hát giao duyên, văn học nghệ thuật dân gian các dân tộc thiểu số còn là ký ức cộng đồng, là kho tàng tri thức chắt lọc qua hàng nghìn năm. Trong bối cảnh hội nhập, đó vừa là nền tảng để khẳng định bản sắc, vừa là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nghệ thuật hiện đại.
Sợi dây kết nối các thế hệ
Trong bức tranh đa dạng của văn hóa Việt Nam, văn học nghệ thuật dân gian các dân tộc thiểu số là một mảng màu đặc biệt, vừa cổ kính vừa sống động, vừa mang tính bản địa vừa có giá trị phổ quát. Kho tàng này gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng, phản ánh những tri thức sản xuất, tín ngưỡng, phong tục, đạo lý và khát vọng của đồng bào.
Ngày nay, những giá trị ấy vẫn còn nguyên sức sống. Trong đời sống cộng đồng, những điệu hát then, hát lượn, hát khắp, hát ví… vẫn vang lên trong sinh hoạt thường ngày, trở thành sợi dây kết nối các thế hệ. Điều đó cho thấy văn học nghệ thuật dân gian không hề bị lãng quên, mà đang được sử dụng như một phần thiết yếu của đời sống văn hóa.

Văn học nghệ thuật dân gian các dân tộc thiểu số được sưu tầm, nghiên cứu, đưa vào giới thiệu trong các nhà trường
Theo nhà thơ, nhà nghiên cứu Tòng Văn Hân (Điện Biên), thời gian qua, việc nghiên cứu, sưu tầm, quảng bá văn hóa dân gian đã được thực hiện. Đó là những bài ca trong thực hành tín ngưỡng, bài ca trong lao động sản xuất; là những truyện thơ dân gian, bản trường ca diễn xướng mấy đêm liền; là những câu hát đối đáp giao duyên; là những truyện cổ tích hay hàng nghìn câu tục ngữ, thành ngữ… mà dân tộc nào cũng có. Nó tồn tại với xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ hàng nghìn năm nay.
Văn học nghệ thuật dân gian các dân tộc thiểu số cũng đã được đưa vào giáo dục và nghiên cứu. Nhiều trường học đưa truyện cổ tích, tục ngữ của các dân tộc vào chương trình giảng dạy, giúp học sinh hiểu và tự hào về bản sắc văn hóa. Các trường đại học, viện nghiên cứu cũng tiến hành sưu tầm, biên soạn, xuất bản nhiều công trình về văn học dân gian, tạo cơ sở khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị... Đây là cách thiết thực, góp phần giữ gìn ký ức cộng đồng và truyền lại cho thế hệ sau.
Cảm hứng sáng tạo nghệ thuật hiện đại
Văn học nghệ thuật dân gian cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tạo nghệ thuật hiện đại. Nhiều tên tuổi lớn đã để lại dấu ấn sâu đậm với mảng đề tài miền núi và dân tộc. Trong văn học có nhà văn Tô Hoài (Vợ chồng A Phủ), Ma Văn Kháng (Đồng bạc trắng hoa xòe, Xa Phủ), Cao Duy Sơn (Đàn trời, Những chuyện ở lũng Cô Sầu), Dương Thuấn (Trăng Mã Pì Lèng), Nguyễn Huy Thiệp (Những ngọn gió Hua Tát)… Âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh... cũng đã tạo nên một không gian nghệ thuật đậm màu sắc văn hóa dân tộc.
Nhà văn Phạm Công Thế (Lào Cai) khẳng định: bản sắc văn hóa dân tộc là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận. Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ Lào Cai đã và đang tiếp nối sứ mệnh đem tiếng nói, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa dân tộc đến với mọi miền đất nước. Những tác phẩm của họ mang đậm dấu ấn địa phương, phản ánh tâm tư, khát vọng của vùng đất biên viễn, đồng thời góp phần làm giàu thêm kho tàng văn học nghệ thuật dân tộc.
Nhiều tác phẩm giá trị về đề tài dân tộc thiểu số đã ra đời, nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng văn hóa dân gian và văn học bác học qua các thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của dân tộc.
Theo nhà thơ, nhà nghiên cứu Tòng Văn Hân, để có tác phẩm phản ánh đúng cuộc sống của đồng bào, văn nghệ sĩ phải thường xuyên đi thực tế, nếm trải cuộc sống của người dân. Những chuyến đi đến các bản vùng cao, nơi còn ít chịu tác động của cơ chế thị trường, đã giúp nghệ sĩ cảm nhận được vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên, sự bình dị trong đời sống. Từ những mùa lúa nương, vách nhà người Mông trên triền núi cao, đến bản người Thái thanh bình bên cánh đồng nhỏ, những tiếng hát, lời ca vang vọng triền núi... tất cả đều trở thành chất liệu nghệ thuật.
Tuy nhiên, nhà văn Vũ Quốc Khánh (Phú Thọ) cho rằng, bên cạnh sáng tác, công tác quảng bá, giới thiệu và phê bình văn học nghệ thuật cũng cần được chú trọng. Đây là cầu nối đưa tác phẩm đến gần hơn với công chúng, giúp người đọc hiểu và cảm nhận sâu sắc giá trị nghệ thuật.
Nhà thơ Tòng Văn Hân mong muốn Nhà nước quan tâm khuyến khích hoạt động sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm văn hóa văn nghệ dân gian. Điều này vừa giữ gìn, vừa quảng bá văn hóa dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến các văn nghệ sĩ là người dân tộc thiểu số đang sinh sống, hoạt động ở vùng sâu vùng xa - những người trực tiếp gắn bó với đời sống đồng bào, có khả năng phản ánh chân thực nhất hiện thực đời sống ở miền núi.
Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số không chỉ là tiếng nói của cộng đồng, mà còn là nhịp cầu nối quá khứ với hôm nay, truyền thống với hiện đại, góp phần quan trọng khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập.
(Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp thực hiện)











