Mở 'cánh cửa tri thức số' cho người dân vùng dân tộc thiểu số
Công nghệ số đang làm thay đổi căn bản đời sống vùng dân tộc thiểu số, nơi từng bị xem là 'vùng trũng' thông tin. Từ sản xuất nông nghiệp đến du lịch cộng đồng, tri thức số đang trở thành động lực mới cho giảm nghèo bền vững.

Phụ nữ dân tộc thiểu số được tiếp cận thông tin, mở ra cơ hội phát triển kinh tế - Ảnh minh họa
Bước chuyển trong "giảm nghèo thông tin"
Trong nhiều năm, giảm nghèo tại vùng cao nói chung, vùng miền núi phía Bắc nói riêng, là một bài toán khó. Rào cản không phải chỉ là thiếu vốn, thiếu đất sản xuất mà là thiếu thông tin và thiếu kỹ năng tiếp cận tri thức. Nhiều cộng đồng do cách trở địa lý, tiếng phổ thông còn hạn chế, nên khó tiếp cận dịch vụ công cũng như kiến thức sản xuất mới.
Khi hạ tầng viễn thông được đầu tư mạnh, phủ sóng rộng tới các thôn bản, "cánh cửa tri thức số" đã mở ra cho người dân vùng cao. Hệ thống wifi cộng đồng, điểm truy cập Internet, thư viện điện tử lưu động, cùng các lớp đào tạo kỹ năng số bằng tiếng của đồng bào dân tộc thiểu số đã mở ra nhiều cơ hội tiếp cận thông tin cho người dân.

Tuyên truyền giảm nghèo thông tin cho chị em hội viên, phụ nữ ở Lào Cai
Nhiều địa phương như Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Cao Bằng…, đã triển khai mô hình "tổ công nghệ số cộng đồng", mỗi thôn bản có 5-7 thành viên hỗ trợ người dân cài đặt VNeID, sử dụng dịch vụ công trực tuyến, tra cứu giá nông sản, đăng ký khám chữa bệnh từ xa và kết nối thương mại điện tử.
Những kiến thức trước đây còn xa lạ với đồng bào, thì nay được truyền đạt bằng video minh họa, đồ họa ngắn gọn, dễ hiểu bằng tiếng Tày, Nùng, Mông, Dao…, giúp người dân nắm bắt nhanh hơn. Nhận thức của người dân, nhờ đó được nâng lên, họ chủ động tìm kiếm tri thức, áp dụng kỹ thuật mới và tiếp cận thị trường thông qua môi trường số.
Phát triển kinh tế số
Một trong những thay đổi lớn khi công nghệ số được đưa về vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc đó là sự bứt phá của kinh tế nông nghiệp. Nếu trước kia người dân sản xuất nhỏ lẻ, bị phụ thuộc vào thương lái thì nay nhiều hộ đã biết dùng điện thoại để cập nhật giá, học kỹ thuật canh tác trên YouTube, Zalo, TikTok; nhận thông tin dự báo thời tiết, mùa vụ; áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, truy xuất nguồn gốc bằng mã QR.

Một buổi tư vấn, trang bị kiến thức cho hội viên phụ nữ
Nhờ đó, nhiều mặt hàng nông sản vùng cao như mận hậu, lê tai nung, chè shan tuyết, mắc ca, nghệ vàng được đưa lên sàn thương mại điện tử, giúp mở rộng tệp khách hàng ra ngoài tỉnh, thậm chí ra quốc tế. Tại Lào Cai, chỉ trong năm 2024, đã có hơn 1.500 hộ đồng bào dân tộc thiểu số đưa sản phẩm nông nghiệp lên sàn điện tử, doanh thu tăng 20-40% so với phương thức bán hàng truyền thống.
Ở tỉnh Tuyên Quang, mô hình "nhà nông số" giúp hàng nghìn hộ trồng cam, chè được hướng dẫn kỹ năng thương mại điện tử, ứng dụng cảm biến môi trường để giảm chi phí sản xuất. Công nghệ cũng góp phần hình thành những "hợp tác xã số" với hệ thống sổ sách điện tử, thanh toán không tiền mặt, quản lý đơn hàng và quảng bá sản phẩm một cách bài bản. Đây chính là nền tảng giúp kinh tế hộ, kinh tế nông nghiệp gắn với thị trường và từng bước bền vững.
Một lĩnh vực ghi nhận bước chuyển rõ rệt nhất là du lịch cộng đồng. Khi điện thoại thông minh trở nên phổ biến tại vùng cao, người dân bắt đầu biết quảng bá homestay, dịch vụ trải nghiệm, sản phẩm văn hóa qua mạng xã hội. Tại các địa phương như Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Quản Bạ (Tuyên Quang), Pác Miều (Cao Bằng), nhiều hộ đồng bào dân tộc Mông, Dao, Tày… đã lập fanpage, đăng video trải nghiệm dệt lanh, chế biến ẩm thực, hướng dẫn leo núi, săn mây, biểu diễn dân ca.
Có những đoạn video chỉ 30-60 giây nhưng thu hút hàng trăm nghìn lượt xem, giúp lượng khách tăng mạnh. Công nghệ số không chỉ hỗ trợ quảng bá mà còn giúp phát triển dịch vụ du lịch một cách chuyên nghiệp hơn: đặt phòng online, thanh toán điện tử, quản lý lịch trình qua ứng dụng, tương tác với du khách bằng nhiều ngôn ngữ.

Một hoạt động tập huấn phát triển nghề nghiệp và kinh doanh cho thanh niên, phụ nữ Lào Cai
Tại tỉnh Lai Châu, mô hình "bản du lịch số" ở bản Sin Suối Hồ và bản Gia Khâu cho phép du khách quét mã QR để xem bản đồ du lịch, thông tin homestay, sản phẩm OCOP và lịch trình sự kiện. Điều này giúp du lịch vùng cao tiếp cận được nhóm du khách trẻ, khách quốc tế, những người ưu tiên trải nghiệm và dịch vụ số hóa. Nhờ đó, thu nhập từ du lịch cộng đồng của nhiều hộ dân tăng từ 50 triệu đến 120 triệu đồng/năm, trở thành nguồn lực quan trọng để giảm nghèo bền vững.
Giải pháp cốt lõi trong giảm nghèo bền vững
Trong công tác giảm nghèo bền vững tại vùng dân tộc thiểu số, "giảm nghèo thông tin" được xem là giải pháp cốt lõi giúp người dân tiếp cận tri thức, nâng cao năng lực. Khi có tri thức, họ không chỉ biết cách sản xuất tốt hơn mà còn chủ động phòng tránh rủi ro, quản lý tài chính, tiếp cận thị trường và dịch vụ xã hội. Việc ứng dụng công nghệ số giúp người dân có thể tiếp cận chính sách, khoa học kỹ thuật, giáo dục trực tuyến, dịch vụ y tế một cách thuận tiện hơn.
Các lớp học trực tuyến giúp phụ nữ, thanh niên và học sinh dân tộc thiểu số có thêm cơ hội nâng cao kiến thức, kỹ năng. Các tỉnh như Lào Cai, Cao Bằng đã tổ chức tập huấn, đào tạo cho hàng nghìn lượt phụ nữ kỹ năng số cơ bản, kỹ năng an toàn thông tin, kỹ năng livestream bán hàng, thương mại điện tử… Thông qua hoạt động nâng cao năng lực, tinh thần tự lực, chủ động vươn lên thoát nghèo của người dân cũng tăng lên, không còn bị động, chờ hỗ trợ mà trở thành người kiến tạo sự thay đổi cho gia đình và cộng đồng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc chuyển đổi số ở vùng dân tộc thiểu số vẫn đối mặt với không ít khó khăn. Đó là hạ tầng Internet ở nhiều nơi còn yếu. Cơ hội học tập của nhiều phụ nữ vùng cao bị hạn chế do định kiến giới. Tài liệu hướng dẫn chưa đồng bộ giữa các ngôn ngữ dân tộc.

Công nghệ số đang từng bước thay đổi đời sống vùng dân tộc thiểu số
Bên cạnh đó, kỹ năng số của người dân vùng cao chưa theo kịp tốc độ phát triển của thị trường. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ hơn từ chính quyền, các sở, ngành, tổ chức và doanh nghiệp công nghệ. Cần tăng cường đào tạo kỹ năng số theo cấp độ, đưa chương trình giáo dục công nghệ vào trường học vùng cao; phát triển kho học liệu số đa ngôn ngữ; đầu tư mạnh vào hạ tầng viễn thông; hỗ trợ tài chính để người dân vùng cao có thiết bị thông minh; nhân rộng mô hình "tổ công nghệ số cộng đồng"; tạo cơ chế để thanh niên, phụ nữ vùng cao tham gia làm việc trong lĩnh vực công nghệ.
Việc ứng dụng công nghệ số đã mở ra cơ hội lớn để người dân vùng dân tộc thiểu số tiếp cận tri thức, phát triển kinh tế, mở rộng thị trường và cải thiện chất lượng cuộc sống. Nhiều bản làng từ chỗ thiếu thông tin nay đã trở thành điểm sáng về chuyển đổi số, phát triển du lịch cộng đồng, tạo sinh kế ổn định.
Chuyển đổi số không chỉ là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển mà còn là con đường đưa tri thức đến gần hơn với người dân vùng dân tộc thiểu số, giúp nâng cao năng lực, sự chủ động vươn lên thoát nghèo, phát triển kinh tế.














