Vận hội mới của ngành Giáo dục (Bài cuối): Lời hiệu triệu trong hành trình đi tới một Việt Nam hùng cường

Nghị quyết số 71-NQ/TW không chỉ là một văn kiện chính trị, mà là bản thiết kế chiến lược cho nền giáo dục quốc dân. Nó khẳng định một chân lý: Không có nền giáo dục mạnh, không thể có quốc gia hùng cường.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng nêu quan điểm, Nghị quyết 71 khẳng định giáo dục là nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc. (Nguồn: VGP)

TS. Nguyễn Sĩ Dũng nêu quan điểm, Nghị quyết 71 khẳng định giáo dục là nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc. (Nguồn: VGP)

Một buổi sáng vùng cao, trong căn lớp học lợp mái fibro xiêu vẹo, những đứa trẻ ngồi chen chúc trên những chiếc ghế gỗ thô sơ. Ánh mắt chúng sáng long lanh khi nghe cô giáo giảng về những con số, con chữ. Nhìn vào đó, ta thấy rõ khát vọng đổi đời cháy bỏng. Từ một lớp học nghèo khó như thế, vận mệnh cả một dân tộc có thể được khởi đầu.

Chính vì vậy, ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW (Nghị quyết 71) về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, khẳng định giáo dục và đào tạo không chỉ là quốc sách hàng đầu, mà còn là “nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc”. Đây không chỉ là một văn kiện, mà còn là lời hiệu triệu, đặt giáo dục vào vị trí tối thượng trong hành trình đi tới một Việt Nam hùng cường.

Bối cảnh và yêu cầu mới

Việt Nam đang bước vào giai đoạn bản lề của phát triển. Để hiện thực hóa khát vọng đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, chúng ta cần nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực sáng tạo, có kỹ năng hội nhập toàn cầu.

Trong khi đó, thế giới đang chứng kiến những biến động chưa từng có: Cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, biến đổi khí hậu, cạnh tranh nhân tài toàn cầu. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, chỉ còn nguồn lực con người là vô tận. Ai làm chủ được tri thức, công nghệ, nhân tài, người đó làm chủ tương lai.

Thực tiễn giáo dục Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu: Phổ cập, nâng cao dân trí, hội nhập quốc tế, giành giải cao trong các kỳ thi quốc tế. Tuy vậy, còn nhiều hạn chế như chênh lệch vùng miền sâu sắc, áp lực thi cử nặng nề, cơ sở vật chất thiếu thốn, đội ngũ nhà giáo chưa đồng đều. Một bộ phận học sinh vẫn học để thi, chứ chưa học để làm người, để sáng tạo. Chính trong bối cảnh đó, Nghị quyết 71 ra đời với tinh thần không phải chỉ cải tiến kỹ thuật, mà là đột phá thể chế, đổi mới tư duy, tạo cơ chế vượt trội.

Đột phá từ đổi mới tư duy và thể chế

Nghị quyết 71 xác lập một tầm nhìn chiến lược dài hạn cho giáo dục Việt Nam, với những cột mốc rõ ràng: Đến năm 2030, giáo dục mầm non và phổ thông phải đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đồng thời đào tạo được nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của xã hội và nền kinh tế. Bước sang năm 2035, hệ thống giáo dục quốc dân phải được hiện đại hóa về cơ cấu, nội dung và phương thức, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và nâng cao chất lượng toàn diện. Đích đến cao nhất là năm 2045, khi Việt Nam tròn một thế kỷ độc lập, sẽ có một nền giáo dục hiện đại, công bằng, chất lượng, đủ sức đưa đất nước vào nhóm khoảng 20 quốc gia hàng đầu thế giới về giáo dục.

"Nghị quyết 71 không chỉ là một văn kiện chính trị, mà là bản thiết kế chiến lược cho nền giáo dục quốc dân. Nó khẳng định một chân lý: Không có nền giáo dục mạnh, không thể có quốc gia hùng cường. Mỗi gia đình, mỗi nhà giáo, mỗi học sinh, mỗi công dân đều có vai trò trong công cuộc này".

Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, Nghị quyết khẳng định những quan điểm chỉ đạo nền tảng. Người học được coi là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục; nhà giáo là động lực thúc đẩy sự thay đổi; nhà trường là nền tảng để kiến tạo tri thức và giá trị. Nhà nước giữ vai trò định hướng và kiến tạo thể chế, song sự nghiệp giáo dục không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà cần có sự chung tay của toàn xã hội.

Cô giáo Thân Phương Quyên và học sinh lớp 1, Trường Tiểu học Kim Giang (Phường Khương Đình, TP. Hà Nội) trong ngày khai trường. (Ảnh: Nguyệt Anh)

Cô giáo Thân Phương Quyên và học sinh lớp 1, Trường Tiểu học Kim Giang (Phường Khương Đình, TP. Hà Nội) trong ngày khai trường. (Ảnh: Nguyệt Anh)

Đặc biệt, đổi mới tư duy và thể chế được coi là khâu đột phá, bởi chỉ có cải cách mạnh mẽ về cơ chế, chính sách mới tạo ra được không gian phát triển mới cho giáo dục. Nghị quyết cũng nhấn mạnh mục tiêu xây dựng nền giáo dục toàn diện: Đức – Trí – Thể – Mỹ, hướng tới hình thành hệ giá trị con người Việt Nam thời đại mới, vừa mang bản sắc dân tộc, vừa đủ năng lực hội nhập quốc tế.

Từ tầm nhìn và quan điểm chỉ đạo đó, Nghị quyết 71 đưa ra nhiều chính sách cụ thể mang tính đột phá, có khả năng tạo chuyển biến ngay từ những khâu thiết yếu nhất. Chẳng hạn, chính sách phụ cấp nghề cho giáo viên, với mức tối thiểu 70% cho giáo viên mầm non và phổ thông, 30% cho nhân viên trường học, 100% cho giáo viên vùng đặc biệt khó khăn, không chỉ cải thiện thu nhập mà còn gửi đi thông điệp mạnh mẽ: Xã hội trân trọng và đề cao nghề dạy học.

Lộ trình áp dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất từ năm học 2026-2027, tiến tới miễn phí sách giáo khoa cho toàn bộ học sinh vào năm 2030, thể hiện quyết tâm bảo đảm công bằng trong tiếp cận tri thức và giảm gánh nặng cho phụ huynh. Cùng với đó, chính sách tăng cường dạy và học ngoại ngữ, hướng tới đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai, nhằm mở rộng cánh cửa hội nhập cho thế hệ trẻ.

"Trong khát vọng 2045, mỗi học sinh, sinh viên hôm nay chính là một hạt giống của tương lai, còn mỗi thầy cô giáo là người gieo mầm cho vận mệnh dân tộc. Đầu tư vào giáo dục là khoản đầu tư sinh lời cao nhất, là 'bảo hiểm' chắc chắn nhất cho sự trường tồn và phát triển của quốc gia".

Đặc biệt, Nghị quyết nhấn mạnh việc đổi mới phương thức thi cử theo hướng áp dụng công nghệ hiện đại: Tổ chức các kỳ thi trên máy tính, xây dựng hệ thống dữ liệu giáo dục và nhân lực quốc gia kết nối với thị trường lao động.

Điều này sẽ giúp giảm áp lực, tăng tính minh bạch, đồng thời tạo ra mối liên thông thực chất giữa đào tạo và sử dụng. Toàn bộ quá trình đổi mới được đặt trên nền tảng chuyển đổi số toàn diện, với sự ứng dụng sâu rộng của trí tuệ nhân tạo trong quản lý và dạy học. Đây là bước tiến dài, đưa giáo dục Việt Nam rút ngắn khoảng cách với thế giới, đồng thời chuẩn bị cho công dân thế hệ mới năng lực thích ứng trong kỷ nguyên số.

Nghị quyết 71 nhấn mạnh, người học được coi là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục; nhà giáo là động lực thúc đẩy sự thay đổi. (Ảnh: Phạm Thanh Thủy)

Nghị quyết 71 nhấn mạnh, người học được coi là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục; nhà giáo là động lực thúc đẩy sự thay đổi. (Ảnh: Phạm Thanh Thủy)

Không có nền giáo dục mạnh, không thể có quốc gia hùng cường

Nghị quyết 71 mang ý nghĩa chiến lược ở chỗ nó đã nâng tầm giáo dục từ vị trí “quốc sách hàng đầu” mà Nghị quyết 29 (2013) từng khẳng định, trở thành “nhân tố quyết định vận mệnh dân tộc”. Sự thay đổi này không đơn thuần là cách diễn đạt, mà phản ánh bước tiến lớn trong tư duy phát triển: Một Việt Nam hùng cường chỉ có thể được xây dựng trên nền móng của một nền giáo dục mạnh, nơi con người được đặt vào trung tâm của mọi chính sách.

Trong khát vọng 2045, mỗi học sinh, sinh viên hôm nay chính là một hạt giống của tương lai, còn mỗi thầy cô giáo là người gieo mầm cho vận mệnh dân tộc. Đầu tư vào giáo dục là khoản đầu tư sinh lời cao nhất, là “bảo hiểm” chắc chắn nhất cho sự trường tồn và phát triển của quốc gia. Không chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước, Nghị quyết còn mở ra cánh cửa hội nhập quốc tế: khi tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, khi kỳ thi được tổ chức trên máy tính minh bạch và hiện đại, khi dữ liệu giáo dục và nhân lực được kết nối trực tiếp với thị trường lao động toàn cầu, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có đủ hành trang để tự tin sánh vai cùng bạn bè năm châu.

"Giáo dục không còn là việc riêng của trường lớp, mà là sứ mệnh chung của toàn dân tộc".

Để Nghị quyết 71 đi vào cuộc sống và tạo nên chuyển biến thực sự, trước mắt cần vượt qua nhiều thách thức và hội đủ những điều kiện bảo đảm. Trước hết là nguồn lực đầu tư: Ngân sách dành cho giáo dục vốn đã chiếm tỷ trọng lớn, song nếu không được phân bổ minh bạch, hiệu quả và tránh lãng phí thì sẽ khó tạo ra thay đổi căn cơ. Cùng với đó, đội ngũ nhà giáo cần được đặt vào vị trí trung tâm của cải cách, với các chính sách thu hút nhân tài, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên để phương châm “thầy ra thầy, trò ra trò” thực sự trở thành hiện thực.

Một điều kiện không thể thiếu nữa là hạ tầng và công nghệ: Không chỉ ở thành phố lớn mà cả vùng sâu, vùng xa cũng phải được tiếp cận thiết bị, Internet và hạ tầng số, nếu không khoảng cách bất bình đẳng sẽ càng bị nới rộng.

Về thể chế và chính sách, cải cách phải đủ mạnh để khắc phục tình trạng “luật hóa bằng công văn”, bảo đảm tính ổn định, khả thi và nhất quán, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự sáng tạo. Quan trọng hơn cả là sự thay đổi trong tư duy xã hội: Giáo dục phải chuyển từ chạy theo điểm số sang phát triển năng lực và phẩm chất, từ giáo dục để thi cử sang giáo dục để sáng tạo. Chỉ khi giải quyết đồng bộ những thách thức ấy, giáo dục Việt Nam mới có thể thực hiện trọn vẹn sứ mệnh mà Nghị quyết 71 đã đặt ra.

Cuối cùng, Nghị quyết 71 không chỉ là một văn kiện chính trị, mà là bản thiết kế chiến lược cho nền giáo dục quốc dân. Nó khẳng định một chân lý: Không có nền giáo dục mạnh, không thể có quốc gia hùng cường. Mỗi gia đình, mỗi nhà giáo, mỗi học sinh, mỗi công dân đều có vai trò trong công cuộc này. Giáo dục không còn là việc riêng của trường lớp, mà là sứ mệnh chung của toàn dân tộc.

Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh:

Đối với Nghị quyết 71: Xác định rõ giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt để phát triển đất nước. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư, bồi đắp, nâng cao “nguyên khí quốc gia”, chính là đầu tư cho tương lai của dân tộc Đây là lĩnh vực then chốt của mọi then chốt, là động lực căn cơ của tăng năng suất, bứt phá năng lực cạnh tranh quốc gia, nuôi dưỡng khát vọng phát triển. Giáo dục đào tạo theo phương châm “Lấy chất lượng làm trục-lấy nhà giáo làm then chốt -lấy công nghệ làm đòn bẩy.”

Về giải pháp, có 8 nhóm chủ đạo. Một là, xây dựng chuẩn đầu ra quốc gia theo bậc học, nghề; triển khai kiểm định bắt buộc, bảng xếp hạng công khai gắn sứ mệnh.

Hai là, đổi mới chương trình và đánh giá, giảm bệnh thành tích, chống dạy thêm tràn lan; triển khai đánh giá chuẩn hóa, chú trọng kỹ năng cốt lõi.

Ba là, đột phá đội ngũ nhà giáo: chuẩn nghề nghiệp mới, đãi ngộ gắn hiệu quả, học bổng thu hút sư phạm, bồi dưỡng số, bảo đảm đạo đức và danh dự nhà giáo.

Bốn là, thúc đẩy tự chủ đại học đi đôi trách nhiệm giải trình; đồng kiến tạo chương trình với doanh nghiệp; tăng cường thực tập có lương; xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo.

Năm là, nâng cấp giáo dục nghề nghiệp gắn chuỗi cung ứng, học thật-làm thật theo mô hình kép; công nhận chứng chỉ kỹ năng số; đánh giá bởi doanh nghiệp. Sáu là, chuyển đổi số trong giáo dục: học liệu mở quốc gia, hồ sơ học tập điện tử suốt đời, nền tảng thi cử an toàn, bảo đảm an ninh dữ liệu.

Bảy là, tài chính giáo dục có mục tiêu: quan tâm hỗ trợ nhóm yếu thế bằng những giải pháp phù hợp (không phải là chiếu cố); quỹ phát triển kỹ năng, cơ chế đặt hàng đào tạo theo nhu cầu vùng-ngành.

Tám là, quốc tế hóa: công nhận tín chỉ, chương trình liên kết, thu hút chuyên gia quốc tế, nâng chuẩn ngoại ngữ theo ngành.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/van-hoi-moi-cua-nganh-giao-duc-bai-cuoi-loi-hieu-trieu-trong-hanh-trinh-di-toi-mot-viet-nam-hung-cuong-328157.html