Vành đai văn hóa soi sáng biên cương - Kỳ 1: Phên dậu mềm bảo vệ Tổ quốc

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, vùng biên viễn luôn là 'phên dậu' của quốc gia - nơi đầu sóng ngọn gió, nơi non sông gửi gắm niềm tin và ý chí giữ nước. Ở đó, không chỉ có núi cao, sông sâu, mà còn có lớp trầm tích của văn hóa và lòng dân - những 'thành lũy mềm' mà không sức mạnh nào khuất phục nổi. Giữa dải biên cương ấy, Tuyên Quang hiện lên không chỉ vững vàng bởi địa thế sông núi mà còn bởi sức mạnh của lòng dân, bản sắc và niềm tin. Bước vào kỷ nguyên hội nhập, khi văn hóa được Đảng ta xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, vành đai văn hóa nơi địa đầu Tổ quốc càng mang ý nghĩa chiến lược: xây dựng văn hóa chính là xây dựng lòng dân, bồi đắp niềm tin và ý chí bảo vệ chủ quyền quốc gia. Báo Tuyên Quang giới thiệu loạt bài viết 'Vành đai văn hóa soi sáng biên cương'.

Từ ngàn xưa, Tuyên Quang được xem là “phên dậu” của quốc gia, vùng đất giữ vị thế trọng yếu trong chiến lược chính trị, quân sự và văn hóa của dân tộc. Sau khi sáp nhập cùng Hà Giang, Tuyên Quang không chỉ mở rộng không gian phát triển, mà còn trở thành điểm tựa chiến lược - nơi “vành đai văn hóa” được hình thành từ hồn cốt 22 dân tộc anh em, hòa quyện thành lớp phên dậu mềm của Tổ quốc, vững về thế trận, mạnh về lòng Dân, bền về văn hóa.

Giao thoa hai nền văn hóa đặc sắc, rộng mở không gian phát triển

Từ thế kỷ XIX, khi vua Minh Mệnh xác lập Tuyên Quang là đơn vị hành chính cấp tỉnh - “địa đầu trấn ải” bảo vệ Trung Châu - vùng đất này đã được định vị là “phên dậu” của quốc gia. Nhà sử học Đặng Xuân Bảng gọi nơi đây là “bức thành thép nơi biên viễn”, còn bia đá khắc trên núi Thổ Sơn từ thế kỷ XV vẫn ghi: “Tuyên Thành vạn cổ án Thăng Long” - minh chứng cho vị thế đặc biệt của Tuyên Quang trong lịch sử giữ nước.

Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, góp phần khẳng định vị thế quốc tế của văn hóa Việt.

Sau khi hợp nhất với Hà Giang, không gian ấy càng được mở rộng, tạo thành một vành đai văn hóa - sinh thái - kinh tế liên hoàn. Trên dải biên cương dài hơn 277 km giáp Trung Quốc, với 17 xã và 122 thôn bản mới, “vành đai văn hóa” tỉnh Tuyên Quang (mới) hiện lên như một bức tranh đa sắc, nơi các dân tộc anh em cùng cộng cư, cùng dệt nên tấm thổ cẩm của bản sắc Việt.

Vành đai văn hóa ở đây không chỉ mang ý nghĩa địa - chính trị, mà còn là phạm trù văn hóa - xã hội hiện đại, được hình thành từ sức mạnh lòng Dân, từ ký ức, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, từ tinh thần Việt kết tinh trong từng bản làng. Đó là biên giới mềm của Tổ quốc, là phên dậu văn hóa của dân tộc, nơi mỗi người dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là chiến sĩ gìn giữ chủ quyền bằng niềm tin và bản sắc.

Không gian văn hóa này mở ra cơ hội lớn để Tuyên Quang khai thác và phát huy các giá trị di sản gắn với phát triển du lịch, kinh tế và lịch sử tâm linh. Toàn tỉnh hiện có gần 400 di sản văn hóa, trong đó 40 di sản phi vật thể được công nhận cấp quốc gia. Đặc biệt, thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, góp phần khẳng định vị thế quốc tế của văn hóa Việt.

Tuyên Quang cũng là vùng đất của gần 100 lễ hội truyền thống, trong đó nhiều lễ hội được phục dựng, tổ chức bài bản và được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Mỗi lễ hội là một “kho lưu trữ sống” của bản sắc và niềm tin, là sợi dây nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai của dân tộc.

Toàn tỉnh hiện có 719 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng, trong đó 213 di tích cấp quốc gia, 289 di tích cấp tỉnh. Nhiều điểm đến đã trở thành “dấu chỉ lịch sử, văn hóa” như: Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Kim Bình, Cột cờ Quốc gia Lũng Cú... Đó còn là Khu du lịch nổi tiếng như: Làng cổ Lô Lô Chải, Làng Văn hóa thôn Tân Lập, xã Tân Trào; Làng Du lịch cộng đồng thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm,… Tất cả là chứng tích lịch sử, văn hóa, là điểm tựa tinh thần, biểu tượng của lòng dân bền chặt nơi phên dậu Tổ quốc.

Ở Tuyên Quang, các dân tộc đều có tiếng nói riêng. 100% gia đình dân tộc Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chỉ... cư trú tại các thôn bản đều nói tiếng mẹ đẻ. Di sản chữ Nôm Tày, chữ Nôm Dao được gìn giữ trong sách cúng của thầy Then, thầy Tào - những “kho báu tri thức dân gian” phản chiếu chiều sâu văn hóa tâm linh. Bảo tàng tỉnh hiện lưu giữ hàng trăm đầu sách Hán - Nôm Tày, minh chứng cho truyền thống văn hiến bền bỉ nơi biên viễn.

Trên dải đất phên dậu Tổ quốc hôm nay, mỗi nếp nhà, mỗi lễ hội, phong tục, di tích… đều là một “thành lũy mềm” bảo vệ chủ quyền dân tộc. Khi văn hóa bén rễ trong lòng người, nó trở thành lá chắn bền bỉ nhất, chống lại mọi vũ khí, mọi thủ đoạn tinh vi nhất - để biên giới không chỉ được giữ bằng đường mốc, mà bằng niềm tin, trí tuệ và bản sắc của Nhân dân.

Lửa thiêng văn hóa sưởi ấm biên cương

Ngay từ buổi đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Lời dạy thiêng liêng ấy, trải qua gần tám thập kỷ, vẫn là ngọn đuốc soi sáng con đường phát triển của dân tộc. Với Tuyên Quang, văn hóa không chỉ là căn cốt của bản làng, mà còn là sức mạnh mềm để làm giàu, để phát triển và sưởi ấm biên cương.

Với chủ trương “Lấy văn hóa để phát triển du lịch, lấy du lịch để bảo tồn và phát huy văn hóa”, Tuyên Quang xác định di sản văn hóa là nguồn tài nguyên đặc biệt - nơi quá khứ gặp gỡ tương lai. Nhờ đó, hình ảnh du lịch của tỉnh ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế với nhiều danh hiệu uy tín: một trong 10 điểm đến hấp dẫn nhất thế giới do CNN bình chọn; điểm đến du lịch mới nổi hàng đầu châu Á năm 2023 và điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á năm 2024. Chỉ tính riêng trong năm 2024, Tuyên Quang đã đón hơn 3,2 triệu lượt khách, hoàn thành và vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Những kết quả ấy là minh chứng sinh động cho nghị quyết của Đảng bộ tỉnh - khi văn hóa thực sự trở thành trụ cột phát triển.

Ở Tuyên Quang, văn hóa đã vượt ra khỏi giới hạn của những nghi lễ và bảo tàng, trở thành “sợi thép” trong kết cấu phát triển bền vững, là điểm tựa định danh của vùng biên viễn. Việc thực hành Then được UNESCO vinh danh, hay hàng chục di sản quốc gia được công nhận chính là bệ phóng cho một chiến lược năng động: biến di sản thành tài sản, biến bản sắc thành thương hiệu du lịch.

Văn hóa - khi được “đánh thức” - không còn là ký ức mà trở thành năng lượng phát triển. Thôn biên giới Lao Xa, xã Sà Phìn, với 117 hộ dân tộc Mông, đã giữ nguyên 55 nếp nhà trình tường cổ. Hay ở thôn Má Chề, cụ Vần Phỏng Sài - người Cờ Lao 90 tuổi - vẫn đan mẹt, gùi, rổ mỗi ngày. Gần 80 năm đan lát, cụ Sài không chỉ làm ra sản phẩm, mà đang “dệt” lại sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, khiến nghề đan lát ở thôn sống mãi trong đời thường.

Nếu Lao Xa và Má Chề là hai điểm sáng của du lịch văn hóa, thì câu chuyện vươn tầm quốc tế của thôn Lô Lô Chải (xã Lũng Cú) là minh chứng rõ nét nhất cho sức sống của “vành đai văn hóa”. Vượt qua hơn 270 hồ sơ từ 65 quốc gia, ngày 17/10/2025, Lô Lô Chải được UN Tourism vinh danh “Làng Du lịch tốt nhất thế giới”. Đây không chỉ là danh hiệu, mà là biểu tượng cho việc văn hóa đã trở thành “hộ chiếu mềm” của chủ quyền Việt Nam.

Trước đó, Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn cũng được World Travel Awards vinh danh là “Điểm đến Văn hóa hàng đầu châu Á năm 2025”. Hai giải thưởng liên tiếp đã nâng tầm vị thế của vùng đất biên viễn, khẳng định sức mạnh của văn hóa Việt trên bản đồ thế giới.

Theo thống kê, toàn tỉnh có gần 40 làng nghề được công nhận, với khoảng 2.000 hộ dân tham gia sản xuất các sản phẩm thủ công tinh xảo, trong đó, nhiều làng nghề hình thành và phát triển ngay tại các xã biên giới. Nổi bật là kỹ thuật thêu thổ cẩm của người Lô Lô, nghề dệt lanh truyền thống và vẽ sáp ong của người Mông, nghề chạm bạc của người Dao…
Văn hóa, từ chỗ là di sản, đã trở thành nguồn lực nội sinh giúp đồng bào làm giàu chính đáng và kiên định bám trụ nơi địa đầu Tổ quốc.

Kỳ diệu của thế trận lòng dân vùng biên giới

Mặc dù Tuyên Quang, Hà Giang trước đây và Tuyên Quang hiện nay là miền biên viễn có sự giao thoa với văn hóa bên ngoài nhưng hàng ngàn đời nay vẫn giữ được nền văn hóa các dân tộc Tuyên Quang. Tình yêu văn hóa là cội nguồn của lòng yêu nước, khởi nguồn cho sức mạnh tự thân của cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây chính là vành đai văn hóa bền chặt, hình thành phên dậu mềm bảo vệ Tổ quốc, góp phần tạo nên sự kỳ diệu của thế trận lòng Dân vùng biên ải.

Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy, từ kháng chiến chống quân Tống, Nguyên, Thanh,… đâu đâu cũng in dấu chân, máu xương của người dân nơi phên dậu phía Bắc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Tuyên Quang trở thành “Thủ đô Khu Giải phóng”, “Thủ đô Kháng chiến”, nơi che chở Đảng và Bác Hồ, nơi vang lên lời thề độc lập. Từ đây, hàng loạt quyết sách lịch sử được ban hành, đưa Việt Nam từ thân phận nô lệ thành quốc gia độc lập.

Ông Kim Xuyến Lượng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Giang nhớ lại: “Những năm kháng chiến, dân 17 xã biên giới chính là “vành đai thép” bảo vệ từ xa. Ai cũng coi việc giấu cán bộ, gùi thóc, tải thương là nhiệm vụ thiêng liêng. Có người gùi gạo suốt đêm, sáng ra lại lên nương như chưa có chuyện gì”.

Theo thống kê, chỉ riêng năm 1953, các xã biên giới Hà Giang (cũ) đã huy động hơn 12.000 dân quân tự vệ, hàng trăm thanh niên nhập ngũ, hàng ngàn lượt người mở đường, vận chuyển vũ khí. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng gửi thư khen: “Đồng bào thân mến! Tôi được báo cáo rằng toàn thể đồng bào hăng hái ủng hộ kháng chiến. Đã bán rẻ lương thực cho bộ đội, tiếp tế cho chiến sĩ bị thương. Tôi rất vui mừng thay mặt Chính phủ cảm ơn và khen ngợi”.

Đặc biệt, trong thời kỳ bảo vệ biên giới phía Bắc (1979), sự kỳ diệu của thế trận lòng Dân vùng biên giới nằm ở chỗ, khi quân chủ lực chưa kịp đến thì lực lượng dân quân cùng với Nhân dân đã giữ vững được bờ cõi. Khi quân xâm lược tràn sang (với vũ khí hiện đại như xe tăng, máy bay), ta chỉ có Sư 3 Sao Vàng là chủ lực, còn lại là dân quân… Riêng mặt trận Vị Xuyên (khi đó thuộc tỉnh Hà Tuyên cũ), mỗi bản làng là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ. Tỷ lệ dân tình nguyện tham gia dân quân tự vệ chiếm trên 10% dân số - một con số biết nói về ý chí “toàn dân đánh giặc”. PGS.TS. Đinh Quang Hải, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, khẳng định: “Sức mạnh nằm ở chỗ đối phương không chỉ phải đối mặt với quân đội, mà phải đối mặt với toàn thể cộng đồng các dân tộc. Mỗi thôn bản là một tổ kháng cự, mỗi người dân là một chiến sĩ”.

Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 đã chứng minh một chân lý vĩnh cửu: không một vũ khí tối tân nào có thể khuất phục được một dân tộc khi ý chí của họ đã hòa quyện thành một thế trận lòng Dân vững chắc.

Hòa bình lập lại, thế trận lòng Dân ấy vẫn được bồi đắp, bằng niềm tin, bằng khát vọng hòa bình và phát triển. Chính người dân - những chủ thể sáng tạo và gìn giữ văn hóa - cũng là những “cột mốc sống”, là lực lượng tiên phong trong các tổ an ninh nhân dân, tổ tự quản vùng biên. Toàn tỉnh hiện có 346 tổ an ninh tự quản với gần 1.600 thành viên, cùng 856 hộ gia đình nhận tự quản 277 km đường biên và hơn 440 cột mốc quốc giới. Già làng, Trưởng bản, người có uy tín trở thành “cánh tay nối dài” của hệ thống chính trị, vừa giữ mốc, giữ rừng, vừa giữ nếp văn hóa quê hương.

Thiếu tá Phàn Thế Hà, Chính trị viên phó Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Thanh Thủy, chia sẻ: Chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm 2025, hơn 60% các vụ việc liên quan đến an ninh trật tự được xử lý thành công đều bắt nguồn từ nguồn tin Nhân dân. Bộ đội là nòng cốt, nhưng Nhân dân chính là tai mắt của biên giới.

Sự kỳ diệu của “thế trận lòng Dân” còn được nuôi dưỡng và lan tỏa bằng tình yêu bền bỉ với văn hóa nguồn cội. Không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, trong cộng đồng đã xuất hiện nhiều mô hình mới, cách làm hiệu quả để gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc. Hiện toàn tỉnh đã có đội văn nghệ quần chúng ở cả 124 xã, phường và hơn 500 câu lạc bộ bảo tồn văn hóa truyền thống. Tất cả đều hoạt động trên tinh thần tự nguyện, thu hút từ trẻ nhỏ đến người cao tuổi, tạo nên sự lan tỏa tự nhiên trong cộng đồng. Nghệ nhân Ưu tú Lục Văn Bảy, Chủ nhiệm CLB Soọng cô, xã Sơn Thủy tự hào kể: “CLB có hơn 200 thành viên, nhỏ nhất mới 6 tuổi. Chúng tôi dạy các cháu nói tiếng Sán Dìu trước rồi mới hát, để văn hóa thấm vào các con nhẹ nhàng như hơi thở”. Hay ở phường Hà Giang 1, ông Nguyễn Văn Chự lại âm thầm biến ngôi nhà sàn của mình thành lớp học hát Then đàn Tính miễn phí, mỗi năm đón 30 - 60 học viên. Chỉ cần mang trong tim tình yêu văn hóa Tày, ai cũng được chào đón.

Đặc biệt hơn, từ năm 2003, trước khi có chính sách hỗ trợ nghệ nhân, nhiều thôn bản đã thành lập hội nghệ nhân dân gian để lưu giữ tri thức văn hóa, dạy nghề truyền thống, bài trừ hủ tục và củng cố khối đoàn kết. Đến nay, toàn tỉnh có hơn 200 hội với trên 9.000 hội viên, trong đó 1.156 nghệ nhân trực tiếp truyền dạy văn hóa trong trường học, hàng trăm lớp học nghề miễn phí được mở tại các địa phương. Nghệ nhân Ưu tú Triệu Chòi Hín (xã Hồ Thầu) khẳng định: “Giữ văn hóa là trách nhiệm và cũng là tâm nguyện của chúng tôi, để dòng chảy ấy không bao giờ ngừng lại”.

Có thể thấy sức mạnh lòng Dân nơi phên dậu hôm nay không chỉ được hun đúc trong những năm tháng chiến tranh, mà đang âm thầm được bồi đắp mỗi ngày bằng tình yêu văn hóa, bằng ý thức cộng đồng và niềm tin vào tương lai.

Trong mạch nguồn ấy, Tổng Bí thư Tô Lâm, khi về dự Lễ khánh thành Tượng đài “Bác Hồ ở Tân Trào” và Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (tháng 8/2025), đã nhấn mạnh một tư tưởng xuyên suốt: Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tuyên Quang hôm nay cần khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tinh thần cảnh giác cách mạng trong mỗi người dân; xây dựng mỗi gia đình là một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Lời dặn ấy không chỉ là tư tưởng chỉ đạo, mà là sự tiếp nối tinh thần Hồ Chí Minh - lấy Dân làm gốc, lấy văn hóa làm nền, lấy niềm tin làm thành lũy. Ở đó, văn hóa không chỉ là ngọn đuốc soi đường, mà còn là lá chắn tinh thần, là sợi dây cố kết cộng đồng, là sức mạnh mềm hóa giải mọi âm mưu chia rẽ.

Thực hiện: Mai Thông, Chúc Huyền, Thu Phương, Biện Luân, Giang Lam, Trần Kế
(còn nữa)

Nguồn Tuyên Quang: http://baotuyenquang.com.vn/van-hoa/202510/vanh-dai-van-hoa-soi-sang-bien-cuong-ky-1-phen-dau-mem-bao-ve-to-quoc-60e001b/