Về Bắc Ninh dự Lễ hội Đền Đô tưởng nhớ công ơn Vua Lý Công Uẩn

Lễ hội Đền Đô được tổ chức nhằm tưởng nhớ công lao của vua Lý Công Uẩn, người khai mở vương triều Lý, phát triển văn minh Đại Việt; góp phần giáo dục thế hệ trẻ về đạo lý 'uống nước nhớ nguồn.'

Đoàn rước kiệu tại Đền Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Đoàn rước kiệu tại Đền Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Nhắc đến những địa điểm tham quan nổi tiếng ở Bắc Ninh không thể không kể đến đền Đô - ngôi đền có tuổi đời gần 1000 năm và là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý gồm Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông.

Lễ hội Đền Đô được tổ chức nhằm tưởng nhớ công lao của vua Lý Công Uẩn, người khai mở vương triều Lý, phát triển văn minh Đại Việt; đồng thời góp phần giáo dục thế hệ trẻ về đạo lý "uống nước nhớ nguồn", tái hiện thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Khám phá kiến trúc đền Đô

Ngôi đền này được xây dựng với diện tích hơn 31.000 m2, với 21 công trình lớn nhỏ được chia thành khu nội thành và khu ngoại thành. Đền thờ chính đặt ở trung tâm.

Đền Đô còn có tên gọi khác là đền Cổ Pháp hay đền Lý Bát Đế. Với thiết kế độc đáo đậm nét đề chùa Việt Nam, ngôi chùa này đã thu hút không ít du khách tới tham quan mỗi năm.

Lịch sử Đền Đô được xây dựng vào năm 1030 trên khu đất phía đông nam châu Cổ Pháp (ngày nay là làng Đình Bảng). Đây là một mảnh đất đắc địa, “địa linh nhân kiệt xuất nhập hanh thông,” mà theo Thiền sư Lý Vạn Hạnh, đây là khu đất hội tụ thiên khí, nơi có thể có đầu rồng chầu về. Trước đền là một khu rừng Báng và dòng sông Tiêu Tương chảy quanh co.

Vào tháng 2 năm Canh Tuất (1010), vua Lý Công Uẩn trở về thăm quê hương sau khi đăng quang. Nhà vua đã dừng thuyền rồng để đi thăm các bậc kỳ lão, yết lăng Thái Hậu. Sau đó vua cho người đo mươi dặm đất để làm “sơn lăng cấm địa”. Dân làng Đình Bảng đã xây dựng một ngôi nhà lớn để làm nơi tiếp đón vua.

Khi vua Lý Thái Tông lên ngôi kế vị vua Lý Công Uẩn, ông đã cho tu sửa lại căn nhà lớn ấy và chọn đây làm nơi thờ tự vua cha. Và cũng từ đó, đây là nơi thờ tự của các vị vua nhà Lý sau khi băng hà.

Cho đến ngày nay, đền đã được tu sửa lại nhiều lần. Và lần tu sửa lớn nhất là vào năm 1602 với 21 hạng mục công trình.

Cấu trúc của đền Đô được chia làm 2 khu vực nội thành và ngoại thành. Trung tâm của đền là điện thờ, là nơi đặt bài vị và tượng của tám vị vua nhà Lý. Xung quanh có nhà Chuyền Bồng, nhà Tiền Tế, nhà Phương Đình, nhà Thủy Đình, nhà để kiệu, nhà để ngựa,…

Bước qua cổng tam quan Ngũ Long Môn (5 con rồng đá được chạm khắc tinh xảo) là một khoảng sân rộng chính giữa đặt lư hương hướng vào nhà Phương Đình. Nơi đây là điện thờ vua Lý Thái Tổ quanh năm hương khói.

Bên cạnh những điện thờ chính tại đền Đô, thủy đình tọa lạc ngay bên hồ Bán Nguyệt cũng là một nơi rất đẹp với thiết kế chạm khắc tinh xảo và công phu.

Lễ hội đền Đô

Hàng năm, lễ hội đền Đô là một trong những lễ hội linh đình nhất ở Bắc Ninh, được tổ chức vào ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch nhân kỷ niệm ngày vua Lý Công Uẩn lên ngôi và ban chiếu dời đô.

Xưa kia, Lễ hội đền Đô được tổ chức hàng năm theo cổ lệ vào ngày 15/3 (âm lịch), kéo liền trong 4 ngày: 14,15,16,17-3 (nay tổ chức gọn lại trong 3 ngày 14,15,16/3 và chính hội là ngày 15/3.

Tương truyền, đó là lễ hội kỷ niệm ngày Lý Thái Tổ đăng quang (15/3 năm Canh Tuất - 1010). Ngày ấy tốt lành, chính Ngọ đắc tâm linh, Lý Thái Tổ làm lễ tế trời, đặt niên hiệu Thuận Thiên mong Thiên hạ thái bình, Người ban Chiếu dời đô.

Lễ hội đền Đô là một lễ hội truyền thống có từ xa xưa, một tục lệ hết sức quan trọng của người dân Đình Bảng, sôi động cả vùng Kinh Bắc, đến cả Thăng Long-Hà Nội và các tỉnh bạn.

Phần lễ khai hội là phần rất quan trọng, lễ bắt đầu của sự may mắn cho cả cộng đồng, cho nên mọi hành vi, lời ăn, tiếng nói đều được tuân thủ một cách nghiêm ngặt.

 Quan đám đọc Chiếu dời Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Quan đám đọc Chiếu dời Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Trong nghi thức tế lễ có lễ “Túc Yết” - đây là nghi thức rước Lý Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng Thái hậu Phạm Thị, người đã có công sinh thành ra Lý Thái Tổ. Nghi thức này còn được hiểu là lễ báo hiếu, lễ rước Thánh Mẫu về dự đại lễ của con. Lễ rước được tổ chức từ 13h30 ngày 13/3 (âm lịch), từ Đền Đô đến đình nơi thờ Thành Hoàng và Lục tổ, những vị đứng đầu sáu dòng họ có công lập làng vào thế kỷ XV, qua chùa Kim Đài, chùa thờ Pháp sư Định Không, ông tổ thứ sáu của Phật giáo, rồi đến chùa Cổ Pháp làm lễ tưởng niệm Lý Thánh Mẫu ở đây.

Lễ rước Lý Bát Đế của lễ hội được rước sang chùa Cổ Pháp sau một ngày, chiều 14/3 để đêm 14 tụng kinh nhà Phật và chuẩn bị mọi nghi thức để sáng 15 rước linh bài về đền Đô. Lễ rước trong lễ hội đền Đô được miêu tả “Tám cỗ kiệu trang hoàng lộng lẫy được rước từ đền Đô lên chùa Cổ Pháp để nghe tăng ni tụng kinh, rồi lại rước về chỗ. Kiệu của Lý Chiêu Hoàng không được rước, phải khiêng ra đặt ở trước điện thờ để bà nghênh đón kiệu của tám vua.”

Trong lễ hội đền Đô có hoạt động múa rồng, đây là hoạt động mang tính đặc trưng tiêu biểu của lễ hội, thể hiện hùng khí Thăng Long-biểu trưng của sự thăng tiến, niềm mơ ước của cư dân trồng lúa nước.

Tiếp theo là nghi thức Đại tế. Tế lễ là một loạt các động tác và hành vi nhằm biểu hiện sự tôn kính tưởng nhớ đến công lao to lớn của các vị Vua Lý. Trong không khí linh thiêng, đám tế thay mặt cho dân làng cầu mong sự che chở và ban niềm tin cho họ để họ có một sức mạnh phi thường, vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Lễ hội đền Đô xưa kia thường được rước đủ tám kiệu, nhưng vì tốn nhiều công sức, tiền bạc, nên ngày nay chỉ tổ chức rước hai kiệu có ý nghĩa tượng trưng.

Đoàn múa rồng mở đầu Lễ hội Đền Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Đoàn múa rồng mở đầu Lễ hội Đền Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Lễ và hội là một thể thống nhất không thể tách rời. Nếu phần lễ là phần tín ngưỡng, là phần của thế giới tâm linh; thì phần hội là phần tập hợp vui chơi giải trí, đó là đời sống văn hóa thường nhật mà chỉ có trong những dịp này nhân dân mới có điều kiện thể hiện khả năng sẵn có, hoặc luyện tập của mình. Đặc biệt, ở đó thể hiện sự đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống, với các trò chơi truyền thống văn hóa hấp dẫn mang bản sắc dân tộc.

Ở lễ hội đền Đô có các hoạt động, như đấu vật, chơi cờ người, hát quan họ, hội thơ, chơi đu, thả chim bồ câu, chơi chọi gà, thi nấu cơm niêu đất...Đấu vật là một trò chơi thượng võ trong lễ hội.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, lễ hội đền ẩn chứa trong đó hai yếu tố chính, một là, bày tỏ tấm lòng thành kính và tưởng nhớ đến những người có công với dân tộc nêu cao truyền thống “uống nước nhớ nguồn.” Hai là, cầu phúc, bày tỏ ước vọng về một sự tốt đẹp, thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Thông qua ngày hội, những hoạt động vốn là nghệ thuật hoặc nghi thức nay được nâng cao để lễ vua.

Lễ hội đền Đô là nơi tập trung tư tưởng, tâm lý của nhân dân với lòng thành kính những bậc có công với nước, đáp ứng nhu cầu của con người trở về với cội nguồn, hòa mình với thiên nhiên, tìm lại bản sắc văn hóa dân tộc.

Việc suy tôn, tôn thờ một biểu tượng có sức mạnh bảo vệ cộng đồng, đó là bát vị Tiên vương nhà Lý, được thể hiện tập trung trong các nghi thức lễ của ngày hội. Các nghi lễ được thể chế hóa, thành trật tự thể hiện mối quan hệ giữa con người với thần linh, giữa con người với con người, thể hiện lòng ngưỡng mộ, tôn vinh các vị Đế Vương.

Năm 2014, di tích lịch sử Khu lăng mộ và Đền thờ các vị vua triều Lý được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.

Đoàn rước kiệu tại Đền Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Đoàn rước kiệu tại Đền Đô. (Ảnh: Đinh Văn Nhiều/TTXVN)

Theo bà Cao Thị Hồng Liên, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường Đình Bảng, Trưởng Ban tổ chức lễ hội Đền Đô cho biết lễ hội truyền thống đền Đô được tổ chức hằng năm, kéo dài từ ngày 14 đến hết ngày 16/3 âm lịch. Tuy nhiên, năm nay do ảnh hưởng dịch COVID-19 nên lễ hội diễn ra trong 2 ngày 14-15/3 âm lịch và cũng được tổ chức gọn nhẹ.

Đi đầu đoàn rước là đoàn múa lân, rồng thể hiện hào khí Thăng Long, tiếp đó là ba võ tướng cởi trần, đóng khố, tay cầm chùy đồng và các quân lính đi theo uy nghi, hùng dũng. Sau đoàn rước là kiệu Thánh Mẫu với 18 nữ tướng và kiệu vua Lý Thải Tổ với 16 nam tướng mặc trang phục đỏ. Tiếp đó là các chức sắc, hương lão, gia đình Quan đám và người dân làng dự hội, cờ quạt, chiêng trống tưng bừng. Toàn bộ nghi thức rước được thực hiện trang trọng theo truyền thống.

Ngoài phần lễ, du khách đến tham quan, trẩy hội còn được tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, như: hát quan họ tại thủy đình, cờ tướng, cờ người, thư pháp./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: http://www.vietnamplus.vn/ve-bac-ninh-du-le-hoi-den-do-tuong-nho-cong-on-vua-ly-cong-uan/783969.vnp