Về Sóc Trăng vui lễ hội Oóc Om Bóc cùng đồng bào Khmer
Ngày 23/10, theo ông Ngô Hùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban tổ chức lễ hội 'Oóc Om Bóc - Đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng năm 2020' cho biết, đến nay công tác chuẩn bị cho lễ hội cơ bản hoàn thành chờ ngày khai hội.
Lễ hội “Oóc Om Bóc - Đua ghe ngo” luôn được Sóc Trăng tổ chức, duy trì hằng năm, nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer Sóc Trăng. Ông Trần Cam (ngụ xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú) cho biết về ý nghĩa của lễ hội cúng Trăng: “Từ xa xưa, đồng bào Khmer Nam Bộ khai khẩn đất hoang, dựng ấp lập xóm, chủ yếu sống bằng nghề nông, theo thời tiết hai mùa mưa nắng mà trồng màu và lúa nước. Hai mùa này ảnh hưởng quy luật tự nhiên theo chu kỳ của mặt Trăng quay quanh trái đất, nên để tưởng nhớ công ơn thần mặt Trăng điều hòa thời tiết, giúp ruộng rẫy trúng mùa, bà con lấy lúa nếp mới thu hoạch đem giã thành cốm dẹp làm lễ vật dâng cúng.
Vì thế, Oóc Om Bóc còn gọi là lễ cúng Trăng hay lễ đút cốm dẹp; thể hiện lòng biết ơn của đồng bào Khmer”. Lễ vật cúng Trăng gồm cốm dẹp, khoai lang, khoai môn, trái cây, bánh kẹo... được bà con trong phum, sóc chuẩn bị cả tháng, trước khi diễn ra lễ hội. Đồng bào Khmer lấy lúa nếp quết thành cốm dẹp cùng các hoa màu khác để làm lễ vật cúng Trăng.
Tiếp theo là dựng cổng. Cổng được làm bằng hoa lá với 2 cây tre làm trụ và lá dừa làm vòm ngang. Phía trên cổng, bà con giăng một dây trầu 12 lá được cuốn tròn tượng trưng cho 12 tháng trong năm và một dây cau 7 trái được chẻ vỏ ra như hai cánh con ong, tượng trưng cho 7 ngày trong tuần. Dưới cổng trúc, các lễ vật cúng Trăng được đặt ngay ngắn để tỏ lòng thành kính dâng tới thần mặt Trăng…
Ngoài lễ vật bắt buộc phải có là cốm dẹp, còn lại đều là nông sản do bà con tự trồng, như: dừa tươi, khoai môn, khoai mì, khoai lùn, chuối xiêm, thêm một số hoa quả và nước ướp hoa thơm (thường là 11 thứ). Công việc chuẩn bị lễ vật hoàn tất, vào đêm 14 hoặc 15 khi trăng lên cao (ngày chính của lễ hội), tất cả các thành viên trong gia đình ngồi trang nghiêm, chắp tay huớng về mặt Trăng. Vị cao niên được gọi là A Cha (người đức cao vọng trọng), đứng ra làm chủ lễ…
Ngày trước, lễ cúng diễn ra ở từng nhà, nhưng những năm gần đây, nhiều nơi tổ chức lễ cúng trong chùa với sự chứng kiến của các vị Sư và đông đảo Phật tử nhằm tăng thêm phần long trọng. Theo phong tục cổ truyền của đồng bào Khmer, nghi lễ cúng Trăng xong cũng là lúc các hoạt động phần hội được bắt đầu, đặc sắc nhất là hội đua ghe Ngo.
“Đến giờ, có 42 đội ghe nam, 6 đội ghe nữ của Sóc Trăng và các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu đăng ký tham gia. Giải đua ghe Ngo sẽ diễn ra vào ngày 30, kết thúc ngày 31-10, tại khán đài ở phường 8 (TP Sóc Trăng). Các đội ghe Ngo tranh tài cự ly truyền thống 1.200m (nam) và 1.000m (nữ)”, ông Ngô Hùng cho biết.
Thượng tọa Lý Đen (Trụ trì chùa Chrôi Tum Chăs, phường 10, TP Sóc Trăng) cho biết, nhà chùa cùng chính quyền địa phương đã thành lập Ban tổ chức, ban huấn luyện và tổ phục vụ hậu cần, có kế hoạch chuẩn bị cho đội ghe của chùa tham dự giải. Ban Tổ chức có nhiệm vụ phối hợp vận động kinh phí, vật chất để hỗ trợ cho đội ghe trong suốt quá trình tập luyện, thi đấu; ban huấn luyện huy động thanh niên tập luyện, hướng dẫn kỹ thuật và theo dõi quá trình tập luyện của vận động viên; tổ phục vụ hậu cần chuẩn bị nước uống và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho đội ghe.
Theo Nghệ sĩ ưu tú Sơn Lương, Phó Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Sóc Trăng, lễ hội đua ghe Ngo của đồng bào Khmer là một sản phẩm văn hóa, thể thao và du lịch đặc thù của quê hương Sóc Trăng nói riêng, cộng đồng cư dân ở khu vực ĐBSCL nói chung. “Khi nói đến Sóc Trăng là nói đến lễ hội Đua ghe Ngo và khi nói đến lễ hội Đua ghe Ngo là người ta biết ngay, đó là Sóc Trăng”, nghệ sỹ Sơn Lương chia sẻ.
Đặc biệt, trong khuôn khổ lễ hội Oóc Om Bóc năm nay, Sóc Trăng sẽ tổ chức “Kỷ niệm 100 năm hình thành và phát triển nghệ thuật sân khấu Dù Kê” và công bố Quyết định công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với di sản văn hóa phi vật thể nghệ thuật trình diễn dân gian nhạc Ngũ âm và múa Rom Vong của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng.
Theo các nhà nghiên cứu, nghệ thuật sân khấu Dù Kê ra đời những năm đầu thập niên 20 thế kỷ XX, đến năm 1921, ông Lý Cuôn (thường gọi là Chhà Kọn) người Sóc Vồ (nay là phường 7, TP Sóc Trăng) thành lập gánh hát Dù Kê “Tự Lập Ban” với sân khấu sơn thủy (sử dụng phông vẽ cảnh núi non, đền đài có thể kéo ra, kéo vào).
Sân khấu Dù Kê từ đây được chuẩn hóa, phát triển, biểu diễn không chỉ ở khu vực ĐBSCL mà sang cả nước bạn Campuchia. Nghệ thuật sân khấu Dù Kê là sản phẩm được hình thành bởi những yếu tố đặc biệt qua giao lưu văn hóa của các cộng đồng dân tộc; mang tính đặc thù của vùng đất Sóc Trăng với mối quan hệ cộng cư lâu đời của 3 dân tộc anh em Kinh, Khmer, Hoa. Hình thức biểu diễn của sân khấu Dù Kê thuộc kịch chủng ca kịch, là sự tổng hòa của các loại hình nghệ thuật, như: âm nhạc, múa, mỹ thuật, vũ thuật…