Vì sao bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất chưa phát huy hiệu quả?

Lũ quét và sạt lở đất là 2 loại thiên tai chính gây ra thiệt hại nhiều nhất về người và tài sản, trong khi bản đồ rủi ro lũ quét và sạt lở đất chưa cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và thời gian cụ thể xảy ra thiên tai.

Bản đồ chưa bao phủ, dự báo thiếu chính xác

Theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm, Việt Nam xảy ra khoảng 10 – 15 trận lũ quét và sạt lở đất. Năm 2020, số lượng bão đổ vào khu vực miền Trung tăng cao, dẫn đến tần suất sạt lở đất tăng lên và mức độ nguy hiểm vô cùng nghiêm trọng tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, làm hàng chục người thiệt mạng tại Rào Trăng, Hướng Hóa và Nam Trà My.

Ngoài ra, trong hai mươi năm qua, thiên tai ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng tăng lên đáng kể, đặc biệt là lũ quét và sạt lở đất. Theo khảo sát từ năm 2001 đến 2019, đã có khoảng 553 trận lũ quét, 850 vụ sạt lở đất, làm 673 người thiệt mạng, 41.436 ngôi nhà bị cuốn trôi, nhiều công trình giao thông và sinh kế kinh tế bị hư hại nghiêm trọng; thiệt hại về kinh tế ước tính lên đến hàng nghìn tỷ đồng.

Dự báo lũ quét, sạt lở đất vẫn là điều khó.

Dự báo lũ quét, sạt lở đất vẫn là điều khó.

Lũ quét và sạt lở đất là những loại thiên tai chính thường gây ra thương vong và thiệt hại về tài sản ở các tỉnh miền núi. Tuy nhiên, bản đồ rủi ro lũ quét và sạt lở đất chưa chỉ ra vị trí và thời gian cụ thể xảy ra thiên tai. Một số mô hình giám sát và cảnh báo thí điểm dựa trên thông tin về lượng mưa và mực nước sông chỉ phù hợp với lũ quét ở lưu vực sông. Trong khi lũ quét liên quan đến dòng chảy bùn đất xảy ra ở thượng nguồn lưu vực ở các vùng núi; đây là mối nguy hiểm phổ biến thường gây ra thiệt hại nghiêm trọng, chưa được nghiên cứu và áp dụng các hệ thống giám sát và cảnh báo sớm như vậy.

Lũ quét và sạt lở đất là 2 loại thiên tai chính gây ra thiệt hại nhiều nhất về người và tài sản ở các tỉnh miền núi. Hiện tại, bản đồ rủi ro lũ quét và sạt lở đất chưa cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và thời gian cụ thể xảy ra thiên tai, gây ra khó khăn trong việc quản lý và ứng phó. Các mô hình giám sát và cảnh báo hiện có chủ yếu dựa vào dữ liệu về lượng mưa và mực nước sông, nhưng chúng chỉ phù hợp với các lưu vực sông, không đáp ứng được các tình huống lũ quét và sạt lở đất xảy ra ở các vùng núi cao nơi có dòng chảy bùn đất.

Theo thông tin từ Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, hiện nay, tại một số địa phương như Hà Giang, Lào Cai, Sơn La và Quảng Nam đã hoàn thành các bản đồ chi tiết với tỷ lệ 1:10.000, cho phép xác định khu vực, địa điểm có nguy cơ lũ quét và sạt lở đất đến từng cấp xã. Chẳng hạn, các huyện Mèo Vạc và Quản Bạ (Hà Giang), Sa Pa và Bát Xát (Lào Cai) cũng như các huyện Nam Trà My và Bắc Trà My (Quảng Nam) đã có bản đồ phân vùng nguy cơ chi tiết. Điều này giúp chính quyền và người dân chủ động theo dõi, phòng ngừa thiên tai.

Tuy nhiên, ở nhiều địa phương khác, quá trình lập bản đồ chi tiết vẫn chưa hoàn thiện. Điều này dẫn đến sự không đồng đều trong dự báo và phòng ngừa thiên tai, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả ứng phó thiên tai ở các địa phương. GS.TS Đỗ Minh Đức (Khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội) cho biết, tại cấp địa phương, gần như tiện ai nấy làm, phụ thuộc vào chủ trương hoặc dự án của địa phương.

Theo các chuyên gia, thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chuyên môn ở trung ương là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này ở địa phương. Ở cấp trung ương, một số chuyên gia địa chất cũng chia sẻ, hiện nay việc lập bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất đang do nhiều cơ quan khác nhau thực hiện, như Cục Địa chất (Bộ TN&MT), Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản và cả Tổng cục Khí tượng - thủy văn. Mỗi cơ quan lại sử dụng phương pháp và công nghệ khác nhau để xác định bản đồ sạt lở, lũ quét. Kết quả là những bản đồ hiện nay thường rời rạc, không bao phủ được đầy đủ các nguy cơ, dẫn đến khả năng dự báo thiếu chính xác các hiện tượng lũ quét và sạt lở đất.

Xây dựng hệ thống cảnh báo lũ quét và sạt lở đất đồng bộ

GS.TS Đỗ Minh Đức cho biết, để tiếp tục hoàn thiện năng lực cảnh báo và phòng ngừa nguy cơ lũ quét, sạt lở đất ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1262/QĐ-TTg năm 2023, phê duyệt Đề án "Cảnh báo sớm sạt lở đất và lũ quét tại khu vực miền núi và trung du Việt Nam". Mục tiêu của đề án này là hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất cho 37 tỉnh ở miền núi và trung du hiện nay.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia địa chất, Quyết định 1262/QĐ-TTg vẫn giao cho nhiều cơ quan cùng thực hiện đề án này. Cục Địa chất và Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản sẽ chịu trách nhiệm điều tra và lập bản đồ phân vùng nguy cơ; Tổng cục Khí tượng - thủy văn sẽ cung cấp các dữ liệu về khí tượng thủy văn nhằm hỗ trợ cảnh báo sớm.

Đề án cũng kêu gọi hợp tác quốc tế để áp dụng công nghệ tiên tiến từ các nước khác, nhằm nâng cao khả năng dự báo và cảnh báo thiên tai. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại như viễn thám và dữ liệu thời gian thực sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng dự báo chính xác hơn trong thời gian tới.

"Việc có một bản đồ chung và thống nhất cho cả nước, đồng thời chi tiết đến từng thôn, xã là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Dựa trên bản đồ chi tiết này, chính quyền các địa phương mới có căn cứ để di dời, sắp xếp dân cư, triển khai nhiệm vụ phòng chống thiên tai; đồng thời làm cơ sở để xây dựng các bản đồ quy hoạch khác liên quan, như quy hoạch khu dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, điện…) một cách lâu dài, ổn định", GS.TS Đỗ Minh Đức chia sẻ.

Tuy nhiên, để dự án lớn này thực sự mang lại hiệu quả, PGS-TS Tạ Đức Thịnh, Chủ tịch Hội Địa chất công trình và môi trường Việt Nam, cũng như một số chuyên gia địa chất đề nghị, cần một cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất về xây dựng và quản lý bản đồ các khu vực có nguy cơ thiên tai của quốc gia, nhằm tránh tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan.

Theo đại diện Trung tâm Dự báo khí tượng - thủy văn quốc gia, việc cảnh báo sạt lở và lũ quét lâu nay chỉ dựa trên chỉ số lượng mưa, còn các chuyên gia khí tượng không nắm được thực tế ở khu vực mưa lớn tại thời điểm đó ra sao (từ thực trạng rừng, độ dốc, cấu tạo địa chất đến mật độ công trình xây dựng, dòng chảy và vật cản…). Do đó, để đảm bảo hiệu quả và đồng bộ trong hệ thống cảnh báo lũ quét và sạt lở đất tại Việt Nam, cần phải có một chiến lược rõ ràng để hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo quốc gia.

Tô Hội

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/vi-sao-ban-do-canh-bao-lu-quet-va-sat-lo-dat-chua-phat-huy-hieu-qua-169241004114142163.htm