Vì sao các ngân hàng không nộp thuế GTGT đối với dịch vụ thư tín dụng?
Từ năm 2011 đến nay, các tổ chức tín dụng không thu thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với các loại phí liên quan đến cam kết bảo lãnh thanh toán của ngân hàng; chỉ thu thuế GTGT đối với các loại phí liên quan đến dịch vụ thanh toán thư tín dụng (L/C). Do đó, ngân hàng không kê khai và nộp thuế GTGT đối với dịch vụ L/C.
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) vừa có văn bản gửi Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, đề xuất tháo gỡ vướng mắc thuế GTGT đối với dịch vụ L/C.
Các ngân hàng cho biết, theo quy định của Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn Luật thuế GTGT thì dịch vụ cấp tín dụng thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, theo đó từ năm 2011 đến nay, các tổ chức tín dụng (TCTD) không thu thuế GTGT đối với các loại phí liên quan đến cam kết bảo lãnh thanh toán của ngân hàng; chỉ thu thuế GTGT đối với các loại phí liên quan đến dịch vụ thanh toán L/C.
Tuy nhiên, năm 2019, Kiểm toán Nhà nước có ý kiến cho rằng: Luật các TCTD 2010 định nghĩa cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản bao gồm L/C, nên việc các TCTD không kê khai và nộp thuế GTGT đối với dịch vụ L/C là không đúng quy định của Luật thuế GTGT.
Tổng cục Thuế sau đó đã ban hành công văn đề nghị Cục thuế địa phương rà soát kê khai nộp thuế của các TCTD trên địa bàn. "Điều này gây hoang mang, lo lắng cho các chi nhánh của TCTD về việc thực thi các chính sách của Nhà nước", VNBA cho hay.
VNBA cho rằng các TCTD không cố tình vi phạm, không cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Bởi, sau khi Luật các TCTD có hiệu lực năm 2010, Bộ Tài chính không sửa đổi công văn hướng dẫn việc nộp thuế GTGT; Tổng cục Thuế vẫn giữ nguyên hướng dẫn chính sách thuế GTGT đối với phí L/C.
Theo VNBA, bản chất thuế GTGT là thuế gián thu, trường hợp phải nộp bổ sung, TCTD phải liên hệ và thu lại từ khách hàng, khách hàng sẽ không đồng ý vì lý do biểu phí ngân hàng đã niêm yết các mục phí L/C liên quan cấp tín dụng không chịu thuế GTGT. Hơn nữa, nhiều khách hàng đã hoàn tất việc lập báo cáo tài chính, kiểm toán hàng năm.
Ngoài ra, từ năm 2011 đến nay có nhiều khách hàng không còn quan hệ giao dịch với TCTD hoặc đã giải thể/phá sản nên TCTD không thể thu thuế bổ sung mà phải ghi nhận và theo dõi phải thu trên sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Hơn nữa, nếu phải thực hiện truy thu thuế GTGT để nộp vào ngân sách nhà nước, TCTD và doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc phát hành hóa đơn điều chỉnh thuế GTGT, điều chỉnh lại về số liệu đã kê khai, nộp thuế, khấu trừ thuế…
Các ngân hàng cho rằng: “Việc truy thu và phạt chậm nộp các ngân hàng thương mại với số tiền lớn, mà nguyên nhân không phải do lỗi của các ngân hàng gây ra, sẽ là không công bằng cho các ngân hàng, nhất là các ngân hàng từ trước đến nay luôn chấp hành và tuân thủ đúng các quy định pháp luật; đồng thời chính sách này nếu buộc phải thực hiện sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh của hệ thống ngân hàng nước ta, đồng thời gây mất niềm tin vào chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng như môi trường đầu tư tại Việt Nam".
Từ những bất cập trên, VNBA đề xuất cho phép các TCTD hạch toán số tiền thuế GTGT đối với hoạt động L/C truy thu từ năm 2011 đến nay vào chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, do khoản thuế này là nghĩa vụ của khách hàng mà TCTD không có cơ sở/không thể thu hồi lại được.
Đồng thời, không phải lập hóa đơn điều chỉnh/thay thế đối với các hóa đơn TCTD đã lập sai thuế suất thuế GTGT; Cho phép TCTD kê khai và nộp thuế GTGT tập trung tại Trụ sở chính, không phải kê khai và nộp thuế về Cục thuế địa phương. Trường hợp cần điều tiết về Cục thuế địa phương, Tổng cục thuế thực hiện điều tiết về cục thuế địa phương; Không xử phạt chậm nộp thuế GTGT cũng như phạt vi phạm hành chính; Chỉ đạo Cục thuế địa phương không yêu cầu các TCTD kê khai điều chỉnh và nộp thuế bổ sung cho đến khi có hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế để thực hiện thống nhất trên toàn quốc.