Vì sao EVFTA chưa phải 'chiếc đũa thần' với ngành gỗ?
Hiệp định EVFTA mặc dù đem lại những ưu đãi về thuế nhưng các mức thuế ưu đãi mới sẽ không tạo được các động lực mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường cho các mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào EU trong tương lai.
Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam vừa phối hợp với Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định, Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. HCM, Hiệp hội chế biến gỗ Bình Dương và Tổ chức Forest Trends thực hiện báo cáo"Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) tới các mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào EU".
Theo báo cáo, Việt Nam xuất khẩu tổng số 253 mặt hàng gỗ vào EU với kim ngạch trên 500 triệu USD mỗi năm.
Trước khi EVFTA có hiệu lực, 117 mặt hàng (tương đương với 46,2%) đã có mức thuế nhập khẩu vào EU ở mức 0%. Mặc dù chỉ chiếm dưới 50% tổng số các mặt hàng gỗ Việt Nam xuất khẩu vào EU hàng năm, kim ngạch xuất khẩu hàng năm các mặt hàng thuộc nhóm này khoảng 500 triệu USD, tương đương khoảng gần 90% tổng kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng gỗ của Việt Nam vào khối này. Điều đó có nghĩa về phương diện thuế, EVFTA được thực thi sẽ không có tác động đối với nhóm các mặt hàng này.
Trong 253 mặt hàng xuất khẩu vào EU có 104 mặt hàng có mức thuế từ 1,7% - 6% khi EVFTA có hiệu lực. Các mức thuế với nhóm mặt hàng này được đưa về 0% ngay sau khi EVFTA có hiệu lực. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong nhóm này hàng năm chỉ khoảng 50 triệu USD, tương đương dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tất cả các mặt hàng gỗ của Việt Nam vào EU. Do vậy, việc đưa mức thuế về 0% khi EVFTA có hiệu lực cũng sẽ không có nhiều ý nghĩa đối với nhóm 104 mặt hàng này.
Cũng trong các nhóm mặt hàng gỗ xuất khẩu của Việt Nam có 2 mặt hàng chịu mức thuế 6% trước khi EVFTA được ký kết. Mức thuế này sẽ được đưa về 0% trong thời gian 4 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu nhóm các sản phẩm này chỉ chiếm khoảng dưới 0,4% tổng giá trị xuất khẩu gỗ Việt Nam vào EU, tương đương khoảng 2 triệu USD. Thay đổi mức thuế về 0% sẽ không có nhiều ý nghĩa trong việc mở rộng thị trường cho nhóm hàng này.
Có 30 mặt hàng gỗ của Việt Nam khi xuất khẩu vào EU phải chịu mức thuế trong khoảng 7-10% tùy theo mặt hàng trước khi EVFTA có hiệu lực. Các mức thuế này được đưa về 0% trong thời hạn 6 năm kể từ khi EVFTA đi vào thực hiện. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu hàng năm các mặt hàng này rất nhỏ, khoảng 5 triệu USD, tương đương dưới 1% tổng kim ngạch các mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất vào EU. Tương tự như những nhóm mặt hàng nêu trên, thay đổi về thuế khi EVFTA có hiệu lực sẽ không có ý nghĩa đối với nhóm sản phẩm này.
Vì vậy, các doanh nghiệp gỗ cho rằng với kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng được hưởng các ưu đãi về thuế khi EVFTA có hiệu lực không cao (trên dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu), thực hiện EVFTA sẽ không tạo ra nhiều tác động tích cực trong việc nâng cao cạnh tranh, mở rộng thị trường cho các mặt hàng gỗ của Việt Nam tại thị trường này trong tương lai.
Tuy nhiên, báo cáo cũng cho rằng đây chỉ là những đánh giá trên phương diện thuế. Nội dung của EVFTA bao gồm các lĩnh vực rộng hơn thuế, như phát triển bền vững, xóa bỏrào cản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng đầu tư công, sở hữu trí tuệ…Thực thi của Hiệp định có tiềm năng trong việc thay đổi các lĩnh vực này trong tương lai.
Thực thi EVFTAcũng có tiềm năng trong việc quảng bá, thúc đẩy mở rộng thị trường cho các mặt hàng gỗ của Việt Nam. Do vậy, cần có những đánh giá tổng hợp hơn về tác động của EVFTA tới ngành gỗ Việt Nam, bao gồm tác động về các khía cạnh này trong tương lai.