Vì sao kết quả nghiên cứu chưa trở thành hàng hóa khoa học công nghệ
Sáng 8/11, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã giải đáp các ý kiến chất vấn của đại biểu Quốc hội về những vấn đề như: Vì sao kết quả nghiên cứu chưa trở thành hàng hóa khoa học công nghệ và thực trạng chính sách tài chính dành cho nghiên cứu khoa học.
Làm rõ việc đầu tư liên kết cũng như kinh phí hoạt động khoa học công nghệ
Đại biểu Lê Minh Nam, Đoàn ĐBQH tỉnh Hậu Giang cho biết, nguồn cung công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học công lập ở nước ta khá phong phú, đa dạng, nhưng lượng hàng hóa khoa học công nghệ còn khiêm tốn, chưa hấp dẫn nhiều doanh nghiệp, do kết quả nghiên cứu chưa thực sự trở thành hàng hóa khoa học công nghệ để lưu thông trên thị trường. Đây là thực trạng đáng quan ngại.
Dẫu biết nguồn lực cho khoa học còn khiêm tốn, đầu tư cho nghiên cứu khoa học có tính mạo hiểm, có khả năng rủi ro, không thể “sáng đầu tư, chiều có kết quả”, nhưng nếu không đánh giá kỹ và có giải pháp thích hợp thì rất khó gắn kết nghiên cứu khoa học và ứng dụng hiệu quả.
Vì vậy, không chỉ có chủ trương, mà cần quan tâm đánh giá bối cảnh, xu hướng, nhu cầu phát triển khoa học công nghệ và năng lực thực tế để định rõ nội dung, đối tượng. Qua đó hoạch định chính sách thích hợp để cân đối phát triển từng loại hình khoa học nghiên cứu như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai, nghiên cứu thăm dò.
Liên quan đến sự kết nối trường đào tạo – viện nghiên cứu – thị trường, Bộ trưởng cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 25 về phát triển thị trường khoa học công nghệ đồng bộ, hiện đại, hội nhập. Đây là một cơ sở quan trọng để sắp tới ban hành đề án phát triển thị trường khoa học công nghệ. Trước hết ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, qua đó tạo điều kiện để có sự gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa trường đào tạo – viện nghiên cứu và thị trường.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, Thông tư số 03 quy định lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ, Bộ trưởng cho biết, qua làm việc với địa phương, Bộ đã nắm được khó khăn, vướng mắc này ở các địa phương. Bộ đã dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh, cấp cơ sở sử dụng ngân sách nhà nước tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tuy nhiên, trong quá trình xin ý kiến các bộ, các ngành, việc xác định cấp có thẩm quyền hướng dẫn nội dung này thuộc trách nhiệm của Bộ Khoa học Công nghệ hay của địa phương là chưa xác định rõ, bởi các nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp địa phương là do kinh phí của địa phương tài trợ.
Bộ cũng đã có Công văn gửi các Sở Khoa học và Công nghệ để tham khảo, tham mưu cho lãnh đạo địa phương xem xét, quyết định.
Đối với Thông tư 03, Bộ sẽ tiếp tục làm việc với Bộ Tài chính để xác định rõ cấp có thẩm quyền trong việc lập dự toán, quản lý sử dụng, quyết toán kinh phí đối với các nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp địa phương. Nếu điều này được thực hiện, sẽ tháo gỡ những vướng mắc khó khăn, thúc đẩy các hoạt động khoa học, công nghệ ở địa phương đạt kết quả tốt hơn.
Hoạt động nghiên cứu khoa học cần áp dụng cơ chế đặc thù
Liên quan đến việc cắt giảm thủ tục hành chính liên quan đến thanh quyết toán, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, hiện nay, việc chi tiêu thanh quyết toán các nhiệm vụ khoa học công nghệ phải tuân thủ Luật Kế toán, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đấu thầu.
Thời gian qua, dù đã có thông tư liên tịch quy định về việc khoán chi trong thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ, qua đó đơn giản hóa thủ tục kiểm soát chi của Kho bạc nhà nước, nhưng trách nhiệm kiểm soát chi lại giao cho các đơn vị quản lý kinh phí của các Bộ, các ngành, đơn vị chủ trì.
Nhà khoa học vẫn phải hoàn thiện các chứng từ thực thanh, thực chi hợp pháp cho các nội dung thanh toán, phải thực hiện các thủ tục liên quan đến đấu thầu, mua sắm, phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc sử dụng ngân sách nhà nước. Đó là nguyên nhân dẫn đến có lúc, hồ sơ thanh toán, quyết toán lại nhiều hơn hồ sơ khoa học của nhiệm vụ khoa học.
Bộ trưởng cho biết, về bản chất, trong khi hiệu quả hoạt động nghiên cứu có độ trễ, chưa được chứng minh ngay, sản phẩm của nhiệm vụ khoa học công nghệ còn có nhiều yếu tố vô hình, khó lượng hóa, đánh giá rõ ràng thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật. Tuy nhiên, quan điểm của cơ quan Nhà nước khi xem xét hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước vẫn gắn với việc kiểm soát tính đầy đủ của chứng từ chi tiêu.
Trong thực tế, dù Kho bạc nhà nước không thực hiện kiểm soát chi, nhưng khối lượng các chứng từ chi tiêu, đấu thầu, mua sắm mà tổ chức chủ trì phải lưu giữ để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra gần như không thay đổi so với khi sử dụng phương pháp khoán chi từng phần.
Để tháo gỡ những vướng mắc, bất cập này, hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ cần được áp dụng các cơ chế đặc thù hơn so với các nhiệm vụ chi khác từ ngân sách nhà nước. Nếu không làm được điều này khó có được cơ chế tài chính thực sự đơn giản hóa để “cởi trói” cho các nhà khoa học trong việc thực hiện thanh toán, quyết toán các nhiệm vụ khoa học công nghệ của mình.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, hiện nay, Bộ Khoa học Công nghệ đang phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi Thông tư liên tịch số 27 liên quan đến khoán chi, nghiên cứu kiến nghị Chính phủ sửa đổi Nghị định 95, đề xuất các quan điểm nhằm giải quyết căn cốt các nội dung này trong đề xuất sửa đổi Luật Khoa học công nghệ trình Quốc hội trong thời gian sắp tới. Bộ cũng đang rà soát đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các nhiệm vụ khoa học công nghệ quốc gia, để đảm bảo sự công khai, minh bạch.