Vì sao thời xưa vợ cả không phản đối chồng nạp thiếp?
Tại sao vợ cả thời xưa lại hầu như không phản đối việc chồng nạp thiếp? Theo Sohu, câu trả lời nằm ở hai nguyên nhân cốt lõi, phản ánh rõ nét chế độ hôn nhân và văn hóa xã hội thời phong kiến.
Theo ghi chép, chế độ một vợ nhiều thiếp có từ thời Tây Chu. Người đàn ông có thể cưới một chính thê và nạp thêm thiếp nhưng bản thân hôn nhân thời xưa lại không do người trong cuộc tự quyết. Mọi chuyện phụ thuộc vào môn đăng hộ đối, ý kiến cha mẹ và lời mai mối.
Không chỉ vậy, địa vị giữa các thiếp cũng phân tầng khắt khe:
Quý thiếp – phụ nữ trong họ đi theo làm “bồi giá” cho cô dâu.
Lương thiếp, tiện thiếp, thị thiếp – cấp bậc ngày càng thấp, gần như không có quyền lợi, đặc biệt là tỳ thiếp và ngoại thất.

Ảnh minh họa
Đàn ông muốn nạp thiếp cũng phải đáp ứng những điều kiện rất rõ ràng như phải trên 40 tuổi mà chưa có con. Nếu dưới 40 nhưng cố tình nạp thiếp có thể bị xử phạt. Bên cạnh đó, người đàn ông phải có tài sản. Thời nông nghiệp, ruộng đất chính là thước đo giàu nghèo. Chỉ người có ít nhất năm phần ruộng mới được phép nạp thiếp.
Nói cách khác, không phải cứ muốn là có thiếp. Quy định xã hội vô hình chung khiến việc nạp thiếp trở thành đặc quyền của tầng lớp có điều kiện.
Vì sao chính thê không phản đối?
Áp lực sinh con và truyền nối dòng tộc
Trong xã hội trọng nam khinh nữ, việc sinh được con trai gần như là trách nhiệm tối thượng của người vợ. Nếu không thể sinh con, đặc biệt là con trai, chính thê không chỉ mất vị thế mà còn đối mặt nguy cơ bị chồng ruồng bỏ hoặc hạ bậc.
Chính vì vậy, thay vì phản đối, nhiều người vợ lại ủng hộ chồng nạp thiếp để tăng khả năng có người nối dõi. Khi thiếp sinh được con, địa vị của chính thê cũng được củng cố bởi con của thiếp vẫn do chính thê đứng tên quản lý, được xem là con trong chính thất.
Giữ vững quyền lực trong gia đình
Trong các gia đình truyền thống, chính thê nắm quyền điều hành toàn bộ việc nhà. Việc có thêm thiếp thực chất giúp chính thê san sẻ việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nhất là ở những gia đình khá giả, công việc đông đúc.
Đối với chính thê, thiếp vừa là người hỗ trợ, vừa là “cấp dưới” trong hệ thống gia đình nhiều tầng bậc. Khi quyền lực của mình vẫn được bảo toàn, họ không có nhiều lý do để phản đối.
Chế độ nạp thiếp thời xưa không đơn giản là sở thích của đàn ông mà là sản phẩm của một xã hội phân cấp nặng nề, coi trọng huyết thống và đặt nặng trách nhiệm sinh nở lên vai phụ nữ. Sự im lặng của những người vợ chính là phản ánh của hoàn cảnh. Để bảo vệ địa vị, gia đình và đôi khi chính sự an toàn của bản thân, họ buộc phải chấp nhận.











