Vì sao tỷ lệ nội địa hóa ngành ô tô còn thấp?
Tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô theo mục tiêu đặt ra trước đó là đạt 40% vào năm 2020 nhưng đến nay, con số này vẫn rất thấp.

Tỷ lệ nội địa hóa ngành ô tô chưa đạt mục tiêu
Sáng 18-9, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm "Nội địa hóa ngành ô tô với nền kinh tế độc lập, tự chủ".
Chia sẻ tại tọa đàm, GS.TS Hoàng Văn Cường- Đại biểu Quốc hội cho rằng, chúng ta vẫn chưa đạt được mục tiêu mong muốn là nội địa hóa.
“Sản xuất tại Việt Nam theo nghĩa lắp ráp khá nhiều, trên chục thương hiệu ô tô, đặc biệt là nhóm xe nhỏ, xe vận tải nhỏ, xe con, xe dùng cho cá nhân. Tuy nhiên, điều đáng băn khoăn nhất là tỉ lệ nội địa hóa của nhóm này chỉ khoảng 10%, gần như không, chưa được coi là nội địa hóa”- GS.TS Hoàng Văn Cường nói.
Theo ông Hoàng Văn Cường, tiêu chuẩn thế giới tối thiểu để được đánh giá về xuất xứ hàng hóa thì ít nhất phải được 40%, thế nên 10% không thể gắn tên sản xuất tại Việt Nam được.
Tuy vậy, xe chuyên dùng, xe buýt hay một số xe tải thì tỉ lệ nội địa hóa lại khá cao. Có những xe có thể lên 40%, trên 40%, 60%. Nhưng những nhóm này thì số lượng nhãn hiệu, số lượng đơn vị sản xuất không nhiều, tập trung vào một số đơn vị, một số hãng thôi.
“Qua đấy cho chúng ta thấy, có lẽ chủ trương chúng ta về nội địa hóa rất đúng, nhưng những công cụ để thúc đẩy nội địa hóa chưa đủ. Tôi cho rằng chúng ta mới chỉ quan tâm đến yếu tố thuế, ưu đãi thuế, bảo hộ về thuế.
Thị trường ô tô của chúng ta trong 30 năm qua, nhất là thị trường ô tô nhỏ, ô tô con, cũng phát triển, tăng trưởng nhanh nhưng quy mô chưa lớn. Nhưng lại có rất nhiều nhà đầu tư tham gia vào, như vậy chia nhỏ thị phần ra. Chia nhỏ thị phần như thế rõ ràng rất khó để có thể tập trung vào sản xuất từng linh kiện để nội địa hóa.
Nếu chúng ta đưa ra những yếu tố về ràng buộc vấn đề liên quan đến tỉ lệ nội hóa thì buộc lòng người ta phải tính đến thị phần và phải bắt tay với nhau để chuyển dịch chuỗi sản xuất từ bên ngoài vào trong nước”- GS. TS Hoàng Văn Cường nhấn mạnh.
Theo TS. Nguyễn Văn Hội- Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương - Bộ Công Thương, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam đều có cam kết về 2 mục tiêu Việt Nam quan tâm. Một là nội địa hóa, hai là chuyển giao công nghệ. Song đến thời điểm này, mục tiêu trên chưa đạt được hoặc đạt được không đáng kể. Mục tiêu đến năm 2020 là 40% nhưng đến nay mới là 10%, không đạt mục tiêu về tỉ lệ nội hóa cũng như chuyển giao công nghệ.
Chỉ ra các nguyên nhân cơ bản dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô chưa đạt mục tiêu, TS. Ngô Nhật Thái- Chuyên gia trong ngành sản xuất ô tô cho rằng, tỉ lệ nội địa hóa của chúng ta thấp khách quan là do số lượng tiêu thụ hằng năm ở Việt Nam hiện nay là rất thấp so với những nước sản xuất ô tô hàng đầu thế giới.
Ví dụ, Thái Lan có 70 triệu dân, một năm họ bán 1 triệu xe trong nước, còn xuất khẩu 1 triệu xe. Trong khi Việt Nam kể cả sản xuất trong nước lẫn nhập khẩu, năm 2024 khoảng 500.000 xe thì đã có đến 175.000 xe nguyên chiếc nhập khẩu. Như vậy số lượng sản xuất trong nước rất thấp.
Với sản lượng thấp như vậy và chia ra hàng chục nhãn hiệu khác nhau, chưa kể mỗi nhãn hiệu, như Toyota, lại có rất nhiều loại, thì số lượng trên một chủng loại xe lại càng thấp nữa. Với số lượng thấp thì khả năng đầu tư sản xuất những linh kiện nội địa hóa là vô cùng khó khăn.
Bên cạnh đó, mỗi hãng như Toyota, Ford… đều có hệ thống sản xuất riêng. Hệ thống của họ nằm trong hệ thống toàn cầu (hệ thống OEM), có các nhà sản xuất cung cấp linh kiện cho họ và họ đã có từ trước rồi, từ khi chưa vào Việt Nam. Do đó, doanh nghiệp của chúng ta tham gia được hệ thống OEM ấy là vô cùng khó.
Về chính sách thuế, TS. Ngô Nhật Thái cho rằng cần xem lại. “Hiện nay thuế chúng ta đã từng bước thay đổi và hiện tại thuế nhập khẩu linh kiện vào Việt Nam đã thay đổi từ nhập theo dạng SKD, rồi CKD, rồi IKD… đã được sửa thành thuế tính theo chi tiết.
Tính thuế theo từng loại chi tiết khác nhau và mỗi chi tiết có một mức thuế rõ ràng. Với cách đó, đương nhiên cái nào thuế thấp thì họ nhập khẩu, cái thuế cao thì phải hướng người ta sản xuất trong nước.
Nhưng nhìn lại biểu thuế, tôi thấy có thể chúng ta mới tập trung vào mức thuế với thân xe, các chi tiết bằng thép. Vì thế, những công ty tập trung đầu tư các dây chuyền sản xuất dập để tạo thành thân xe. Thế nhưng chúng ta cần phải chỉ ra, ví dụ trong một chiếc xe con, cái gì là quan trọng, cụm gì là cụm quan trọng nhất của chiếc xe và chúng ta tập trung vào.
Chính sách thuế phải đưa ra những biểu thuế để khuyến khích hay nói cách khác là bắt buộc các nhà đầu tư phải tập trung vào để sản xuất ở trong nước thì mới được giảm thuế”- ông Ngô Nhật Thái nêu quan điểm.
Theo ông Ngô Nhật Thái, bảng biểu thuế của chúng ta hiện nay mới chỉ tập trung vào thân xe là chính, còn các chi tiết quan trọng nhất là cụm động cơ, cụm truyền động, cụm linh kiện điện tử thì chúng ta đánh thuế theo cả cụm, không bóc tách ra nên người ta nhập cả cụm.
Thế nên với các dòng xe từ 4-9 chỗ ngồi, động cơ gần như nhập nguyên chiếc. Hộp số, cầu xe, những chi tiết rất quan trọng cấu thành cái xe gần như nhập nguyên chiếc.
Trong khi, lốp xe, ắc quy hiện nay đã đạt yêu cầu để cung cấp cho tất cả các liên doanh, thậm chí xuất khẩu, doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư mà không cần khuyến khích, bởi vì sản lượng lớn.
Hay với động cơ, vị chuyên gia cho rằng nếu chúng ta đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư vào sản xuất động cơ xăng hay diesel thì sẽ không còn phù hợp nữa. Thay vào đó, cần tập trung khuyến khích phát triển những bộ phận, hệ thống mà tương lai vẫn phải dùng, như hệ thống truyền động, điện tử, hệ thống lái… Do đó, biểu thuế cần được xem xét lại để tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất những sản phẩm này tại Việt Nam.
Theo GS.TS. Hoàng Văn Cường, Việt Nam có lợi thế thu hút sản xuất, đã trở thành công xưởng của thế giới, nên càng cần đặt ra cam kết rõ ràng về tỉ lệ nội địa hóa. Hãng nào mạnh về lĩnh vực nào thì dịch chuyển sản xuất chi tiết đó về Việt Nam, từ đó hình thành hệ thống công nghiệp phụ trợ.
Các hãng cũng phải liên kết, sử dụng linh kiện của nhau, vừa phục vụ thị trường trong nước vừa hướng đến xuất khẩu.
Bên cạnh việc xem xét lại biểu thuế ưu đãi, các đại biểu cho rằng cần giám sát chặt chẽ lộ trình nội địa hóa và sử dụng các công cụ quan trọng khác như: điều tiết thị phần, cam kết nội địa hóa, hỗ trợ doanh nghiệp Việt, yêu cầu liên doanh, chuyển giao công nghệ và rào cản kỹ thuật… để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.
Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/vi-sao-ty-le-noi-dia-hoa-nganh-o-to-con-thap-post624137.antd