Việt Nam chi 5,5 tỷ USD để nhập khẩu dầu thô từ các thị trường
Việt Nam chi 5,5 tỷ USD để nhập khẩu 8,7 triệu tấn dầu thô từ các thị trường, tăng lần lượt 25% về lượng và 20% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/8, Việt Nam chi 5,5 tỷ USD để nhập khẩu 8,7 triệu tấn dầu thô từ các thị trường, tăng lần lượt 25% về lượng và 20% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Giá dầu thô nhập khẩu trung bình lũy kế đến 15/8 đạt 631,2 USD/tấn, tăng 3,4% so với mức 610,4 USD/tấn tại cùng kỳ năm trước.
Về thị trường, Việt Nam nhập khẩu dầu thô từ 3 thị trường chính bao gồm Brunei, Kuwait và Nigeria. Được biết, hiện Kuwait là nhà cung cấp dầu thô lớn nhất cho Việt Nam. Kuwait bắt đầu xuất khẩu dầu thô năm 1946 và là thành viên sáng lập của OPEC.
Kuwait hiện là nhà khai thác với nguồn cung lớn thứ năm của OPEC sau Saudi Arabia, Iraq, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Iran, có trữ lượng dầu đã được chứng minh là 101,5 tỷ thùng.
Chỉ riêng 7 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu tới 7,09 triệu tấn từ quốc gia này, chiếm 88% tổng lượng nhập khẩu dầu thô. So với cùng kỳ năm trước, lượng dầu thô nhập khẩu từ Kuwait tăng 23,4%.
Giá nhập khẩu dầu thô từ quốc gia này cũng ghi nhận tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, lên mức 595,6 USD/tấn. Điều này đã kéo mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu dầu thô từ Kuwait tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 4,42 tỷ USD.
Việt Nam còn nhập khẩu 263.008 tấn dầu thô từ Nigeria với kim ngạch 182 triệu USD trong 7 tháng đầu năm 2024; nhập 82.021 tấn với kim ngạch 55,5 triệu USD từ Brunei. Không ghi nhận mức tăng trưởng về lượng và kim ngạch nhập khẩu dầu thô của hai quốc gia này do cùng kỳ năm trước Tổng cục Hải quan không ghi nhận số liệu.
Năm 2023, Việt Nam nhập khẩu hơn 10 triệu m3 xăng dầu, tương đương 8,4 tỷ USD, tăng 27,9% về lượng và tăng 1,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Dù được đánh giá là quốc gia giàu tài nguyên và là nước sản xuất dầu, xuất khẩu mạnh dầu thô, tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn phải nhập khẩu dầu thô và các sản phẩm dầu từ các quốc gia khác.
Nguyên nhân là do sản lượng khai thác trong nước giảm dần. Sản lượng này phản ánh sự suy giảm sản lượng từ các mỏ dầu truyền thống đã đi vào giai đoạn suy kiệt, khiến nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu.
Bên cạnh đó, sản lượng sản xuất dầu thô để phục vụ cho nhu cầu trong nước. Mặc dù đối mặt với nhiều thách thức về giá dầu thế giới và sự cạnh tranh từ các nguồn năng lượng tái tạo, ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam vẫn nỗ lực duy trì sản lượng và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Bên cạnh việc duy trì công suất tại các nhà máy lọc dầu, đặc biệt là tại nhà máy lọc dầu Dung Quất và Nghi Sơn, nhập khẩu dầu cũng giúp Việt Nam ổn định trong hoạt động cung cấp năng lượng, phòng tránh các rủi ro do gián đoạn nguồn cung trong nước.
80% dầu thô phục vụ cho 2 nhà máy này đến từ nguồn nhập khẩu, còn xăng dầu thành phẩm vẫn cần nhập thêm khoảng 30% mới đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Theo lý giải từ các chuyên gia, dầu thô có rất nhiều nguồn trên thế giới nhưng thường được chia thành dầu ngọt và dầu chua (dựa trên hàm lượng lưu huỳnh) và dầu nặng, dầu nhẹ (dựa trên tỷ trọng của dầu).