Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm tại hội thảo quốc tế về quản trị chính sách dân tộc

Hội thảo quốc tế chia sẻ kinh nghiệm quản lý nhà nước về dân tộc để đóng góp vào việc xây dựng cộng đồng tương lai chung giữa các quốc gia Mekong - Lan Thương diễn ra sáng nay tại Trung Quốc.

Hội thảo diễn ra tại Trường ĐH Dân tộc Trung Nam trực thuộc Ủy ban Dân tộc Nhà nước Trung Quốc (TP Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc), với sự tham dự của khoảng 40 đại biểu đến từ các nước thành viên của cơ chế hợp tác Mekong - Lan Thương (MLC).

Tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Hải Yến, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đã chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và đề xuất một số lưu ý cho quá trình phát triển, hợp tác của các quốc gia.

4 điểm nổi bật trong công tác quản trị chính sách dân tộc của Việt Nam

Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng biệt, đóng góp vào sự phong phú của đất nước. 53 dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 14,7% dân số cả nước, thường sinh sống ở vùng núi và trung du, có khoảng cách lớn về sự phát triển, chênh lệch mức sống với dân tộc đa số. Đối tượng nghèo đang diễn biến theo hướng tập trung vào DTTS.

Bà Nguyễn Thị Hải Yến, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: Vụ Hợp tác quốc tế

Bà Nguyễn Thị Hải Yến, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: Vụ Hợp tác quốc tế

"Hiện có khoảng 140 chính sách về dân tộc tại Việt Nam, trong đó, Bộ Dân tộc và Tôn giáo trực tiếp chủ trì 11 chính sách, các bộ, ngành khác chủ trì khoảng 129 chính sách", bà Yến cho hay, đồng thời nêu rõ một số điểm nổi bật trong công tác quản trị chính sách dân tộc.

Thứ nhất, chính sách và pháp lý dựa trên tinh thần đoàn kết, tôn trọng đa dạng. Việt Nam chú trọng xây dựng khung pháp lý bảo đảm quyền tham gia của các DTTS vào quá trình ra quyết định và giám sát chương trình phát triển.

Chính sách giáo dục và văn hóa đảm bảo giáo dục tiếng mẹ đẻ ở cấp tiểu học và phổ thông ở vùng DTTS, cùng với bảo tồn di sản văn hóa và ngôn ngữ địa phương. Việc này giúp duy trì bản sắc, đồng thời tạo nền tảng cho hòa nhập và phát triển bền vững.

Cùng với đó, sự tham gia của các tổ chức cộng đồng và đoàn thể trong thể chế, triển khai và giám sát các chương trình phát triển tại địa phương ngày càng được tăng cường.

Thứ hai, phát triển kinh tế gắn kết công bằng xã hội. Việt Nam tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, y tế, giáo dục và dịch vụ công ở vùng DTTS nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và giảm nghèo bền vững.

Đồng thời, Việt Nam chú trọng hỗ trợ hộ nghèo và doanh nghiệp địa phương tiếp cận thị trường, công nghệ và kỹ năng quản lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng đều; khai thác thế mạnh truyền thống (nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, du lịch cộng đồng) để nâng cao thu nhập và bảo tồn bản sắc, đồng thời mở rộng liên kết với thị trường hiện đại.

Thứ ba, quản trị và pháp quyền dựa trên sự minh bạch. Việt Nam đảm bảo thông tin về chương trình dân tộc được công khai và có cơ chế phản hồi từ cộng đồng; tham vấn rộng rãi với đại diện DTTS và chuyên gia trước khi ban hành hoặc điều chỉnh chính sách liên quan tới dân tộc; chú trọng đào tạo cán bộ về nhận thức văn hóa, phân tích dữ liệu xã hội và kỹ năng đàm phán để đạt được đồng thuận thực chất.

Thứ tư, tích cực đầu tư cho an sinh xã hội và an ninh con người, thông qua những hoạt động như mở rộng chăm sóc sức khỏe ban đầu tại vùng DTTS và đảm bảo giáo dục phù hợp văn hóa và ngôn ngữ địa phương; hỗ trợ an ninh lương thực, vốn sống và bảo vệ quyền con người, tự do tín ngưỡng, chống các hình thức kỳ thị.

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Vụ Hợp tác quốc tế

Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: Vụ Hợp tác quốc tế

Một số gợi ý cho quá trình phát triển

Với tinh thần góp ý xây dựng tích cực, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo lưu ý 2 vấn đề lớn.

Một là sự cân bằng đồng nhất và đa dạng văn hóa. Thúc đẩy đoàn kết quốc gia có thể ảnh hưởng đến bản sắc của một số DTTS. Tăng cường tham vấn và minh bạch sẽ là giải pháp hay cho vấn đề này.

Hai làsự tham gia địa phương, phát huy tính tự quản. Nâng cao vai trò của cộng đồng địa phương trong thiết kế và giám sát chương trình là yếu tố then chốt cho hiệu quả và bền vững.

Quản trị dân tộc thành công đòi hỏi sự cân bằng giữa đoàn kết quốc gia và tôn trọng đa dạng văn hóa, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa quyền tự do và trật tự công. Tôi hy vọng chúng ta sẽ tiếp tục đối thoại cởi mở, chia sẻ thực tiễn tốt nhất và cùng tìm ra lộ trình tiến bộ vì một xã hội công bằng, tôn trọng đa dạng và phát triển bền vững”, bà Yến chia sẻ.

Bình Minh

Nguồn VietnamNet: https://vietnamnet.vn/viet-nam-chia-se-kinh-nghiem-tai-hoi-thao-quoc-te-ve-quan-tri-chinh-sach-dan-toc-2452919.html