Việt Nam có thể thu đến 1,9 tỷ USD hàng năm khi tham gia thị trường carbon quốc tế
Việc tham gia vào thị trường carbon quốc tế mang lại lợi ích tài chính và ngoại hối đáng kể cho Việt Nam. Theo kịch bản nghiên cứu tác động, doanh thu hàng năm dao động từ 59 triệu USD đến 522 triệu USD trong kịch bản S20 và từ 468,2 triệu USD đến 1,9 tỷ USD trong kịch bản S56...

Hệ thống ETS và các công cụ định giá carbon trở thành một trong những công cụ chính sách ngày càng phổ biến, hiệu quả giúp thực hiện giảm phát thải khí nhà kính.
Thông tin được nhóm nghiên cứu hỗ trợ kỹ thuật đưa ra tại Hội thảo tổng kết “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam” do Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổ chức chiều ngày 23/9/2025.
GIÁ CARBON VÀ DOANH THU TOÀN CẦU TỪ CÁC HỆ THỐNG ETS ĐANG TĂNG MẠNH
Mục tiêu hỗ trợ kỹ thuật nhằm phân tích, xây dựng các phương án quản lý tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính, đồng thời đánh giá tác động. Qua đó, cung cấp các thông tin đầu vào để hỗ trợ quá trình xây dựng hệ thống quản lý, hướng tới vận hành hiệu quả thị trường carbon tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu nhấn mạnh “xu thế chung cho thấy Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon (hay còn gọi là thị trường ETS) và các công cụ định giá carbon khác như thuế carbon đang trở thành một trong những công cụ chính sách ngày càng phổ biến, hiệu quả và mạnh mẽ giúp các quốc gia thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các mục tiêu của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu: Việt Nam đã áp dụng công cụ ETS nhằm góp phần thực hiện mục tiêu cam kết theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo báo cáo hàng năm của WB, số lượng các ETS được áp dụng liên tục tăng qua các năm, từ 25 vào năm 2020 lên 37 hệ thống ETS vào năm 2025. Tương ứng, tỷ lệ kiểm soát lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu được các công cụ này cũng tăng đều đặn, từ khoảng 8% lên 23%. Doanh thu toàn cầu từ các hệ thống ETS tăng từ 25 tỷ USD năm 2020 lên 69,1 tỷ USD vào năm 2024.
“Điều này không chỉ cho thấy hiệu quả của chính sách trong việc tạo ra nguồn lực tài chính bổ sung mà còn phản ánh mức giá carbon ngày càng tăng”, ông Quang nhận xét.
Cùng với xu thế toàn cầu, Việt Nam đã áp dụng công cụ ETS nhằm góp phần thực hiện mục tiêu cam kết theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Để hiện thực hóa cam kết và xây dựng thị trường carbon, Việt Nam đã khẩn trương xây dựng và ban hành khung pháp lý quan trọng. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 lần đầu tiên quy định về "Tổ chức và phát triển thị trường carbon" tại Điều 139.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Nghị định số 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, trong đó đặt ra lộ trình cụ thể phát triển thị trường carbon với giai đoạn thí điểm từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029, hướng tới mục tiêu thí điểm sàn giao dịch carbon ngay trong năm 2025.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách để thị trường carbon vận hành hiệu quả, ông Quang cho biết Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì xây dựng Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, Nghị định về hấp thu và lưu giữ carbon của rừng; Bộ Tài chính xây dựng Nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước.
NHIỆT ĐIỆN THAN LÀ NGÀNH SẼ THAM GIA MUA TÍN CHỈ CARBON CHỦ YẾU
Thông tin về hoạt động nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật, đánh giá các tác động, bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty TNHH Kiến tạo Khí hậu xanh (GreenCIC), Trưởng Nhóm tư vấn, cho biết hoạt động hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện trong 12 tháng, tập trung 2 nội dung chính: các phương án quản lý ETS; các phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon và kết quả giảm phát thải từ Việt Nam ra thị trường quốc tế và đánh giá tác động của các phương án này.
Bà Loan thông tin thêm, về phương án quản lý hệ thống giao dịch hạn ngạch tín chỉ carbon trong nước (hệ thống ETS), kịch bản đánh giá tác động dựa theo kinh nghiệm quốc tế và định hướng của Việt Nam, trong đó tập trung 3 lĩnh vực thí điểm là nhiệt điện, sắt thép và xi măng.
Từ tỷ lệ đóng góp của 3 lĩnh vực này vào kiểm kê khí nhà kính quốc gia cho thấy đây là những lĩnh vực đóng góp đáng kể. Lĩnh vực công nghiệp đóng góp hơn 74% trong tổng khí nhà kính quốc gia; xi măng đóng góp trên 50% cho các ngành công nghiệp khác; sắt thép đóng góp hơn 84% cho các ngành thuộc lĩnh vực luyện kim, khai khoáng. Còn nhiệt điện đóng góp tới 96% trong lĩnh vực liên quan đến sản xuất điện.

Ông Hồ Công Hòa: Trong mọi kịch bản, ngành nhiệt điện than vẫn là ngành tham gia mua tín chỉ carbon chủ yếu, chiếm 85-90% tổng giao dịch tín chỉ carbon trên thị trường, tương đương 13-14,6 triệu tín chỉ carbon.
“Ba lĩnh vực này đóng góp gần 43% tổng kiểm kê khí nhà kính quốc gia. Đây là một tỷ lệ bao phủ khá lớn so với các ETS trên thế giới”, bà Loan nói.
Dựa trên các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam hiện nay, 3 kịch bản xác định tổng hạn ngạch gồm: mục tiêu do quốc gia tự thực hiện (mục tiêu NDC không điều kiện); mục tiêu đạt được nếu có sự hỗ trợ của quốc tế (mục tiêu NDC có điều kiện) và mục tiêu đạt được nếu có sự hỗ trợ của quốc tế kết hợp với mục tiêu đưa ra trong Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (mục tiêu NDC có điều kiện và JETP).
Đối với mỗi kịch bản, nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động để các doanh nghiệp, các ngành, và nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam đạt được các mục tiêu này trong trường hợp không có ETS và trường hợp có ETS với tỷ lệ sử dụng tín chỉ bù trừ tối đa 10%, 20% và 30%.
Khi không có ETS, doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư đầy đủ các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt được mục tiêu NDC. Trong khi có thị trường ETS, doanh nghiệp sẽ được lựa chọn phương án tối ưu: mua hạn ngạch, tín chỉ hoặc tự đầu tư vào các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính.
Theo chuyên gia, phân tích cho thấy ETS đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ lại gánh nặng giảm phát thải khí nhà kính, giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc lựa chọn giữa đầu tư công nghệ và mua tài chính, đặc biệt là đối với lĩnh vực nhiệt điện.
Trao đổi về kết quả đánh giá tác động, ông Hồ Công Hòa, Học viện Chính sách và phát triển, Chuyên gia Nhóm tư vấn, cho biết trong kịch bản mục tiêu ETS gắn với NDC không điều kiện, tổng chi phí tuân thủ giảm từ 420,5 triệu USD trong trường hợp không có ETS xuống 68,9 triệu USD trong trường hợp có ETS với tỷ lệ bù trừ 30%. Trong kịch bản theo mục tiêu NDC có điều kiện, chi phí này giảm tương ứng từ 1,297 tỷ USD xuống 879,8 triệu USD.
Cũng theo nghiên cứu, ETS có khả năng giảm thiểu tổn thất GDP, tiêu dùng và hạn chế áp lực lạm phát.
Nhu cầu tín chỉ carbon của thị trường với tỷ lệ bù trừ tối đa 30% dự kiến là 56-62 triệu tín chỉ/năm, tuy nhiên khả năng hấp thụ tối đa của thị trường chỉ ở mức 15,8-16,3 triệu tín chỉ/năm. Trong mọi kịch bản, ngành nhiệt điện than vẫn là ngành tham gia mua tín chỉ chủ yếu, chiếm 85-90% tổng giao dịch tín chỉ trên thị trường, tương đương 13-14,6 triệu tín chỉ.
Giá tín chỉ carbon biến động mạnh theo tỷ lệ bù trừ và mức độ tham vọng của các mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của ETS, nghiên cứu chỉ rõ.
TÁC ĐỘNG TỪ GIAO DỊCH TÍN CHỈ CARBON RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
Liên quan phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon ra thị trường quốc tế, phân tích chỉ ra rằng việc tham gia vào thị trường carbon quốc tế mang lại lợi ích tài chính và ngoại hối đáng kể cho Việt Nam.
Ông Hòa thông tin, doanh thu hàng năm dao động từ 59-522 triệu USD trong kịch bản S20 (20 biện pháp giảm nhẹ chỉ đóng góp cho mục tiêu NDC có điều kiện) và từ 468,2 triệu USD đến 1,9 tỷ USD trong kịch bản S56 (56 biện pháp giảm nhẹ đóng góp cho cả mục tiêu NDC không điều kiện và có điều kiện).

Bà Nguyễn Hồng Loan đề xuất xây dựng phương án quản lý thống nhất với ETS và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế là yếu tố then chốt để tránh rủi ro bán vượt mức, bảo đảm đủ tín chỉ cho tuân thủ trong nước và duy trì tính toàn vẹn của mục tiêu NDC.
Việc thu phí giao dịch ở mức 2% doanh thu có thể đóng góp từ 1,2-10,4 triệu USD vào ngân sách nhà nước. Tăng trưởng GDP đạt từ 0,013-0,082% trong trường hợp S20 và 0,068-0,32% trong trường hợp S56 tùy theo kịch bản giá. Tiêu dùng cá nhân và việc làm tăng trong khi chỉ số giá tiêu dùng giảm nhẹ trong tất cả các kịch bản.
Nhìn chung, việc mở rộng các biện pháp cho phép tạo tín chỉ giao dịch trên thị trường carbon quốc tế theo kịch bản S56 mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn đáng kể hơn so với kịch bản S20. Công nghiệp, năng lượng, và xử lý chất thải là những ngành hưởng lợi chính do chi phí giảm phát thải khí nhà kính thấp. Trong khi đó các biện pháp trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp có chi phí cao hơn và dễ gặp rủi ro tài chính trong trường hợp tín chỉ giao dịch bị hạn chế ở mức thấp (50%).
“Tuy nhiên, tỷ lệ giao dịch cao ở mức 70% trong kịch bản S56 có thể dẫn đến nguy cơ bán quá và không đạt được mục tiêu NDC không điều kiện”.
Từ thực tế nghiên cứu trên, bà Loan đề xuất xây dựng phương án quản lý thống nhất với ETS và giao dịch tín chỉ carbon quốc tế là yếu tố then chốt để tránh rủi ro bán vượt mức, bảo đảm đủ tín chỉ cho tuân thủ trong nước và duy trì tính toàn vẹn của mục tiêu NDC.
Cũng tại hội thảo, các chuyên gia tư vấn quốc tế đã chia sẻ các bước tiếp theo đối với quản lý ETS và việc quản lý mua bán tín chỉ carbon quốc tế cho Việt Nam dựa trên kinh nghiệm quốc tế.