Việt Nam – Cuba: Xa vạn dặm mà gần gang tấc

Giữa những đổi thay chóng mặt của thế giới, vẫn có những tình bạn không hề phai. Việt Nam và Cuba, hai đất nước cách nhau nửa vòng trái đất, đã từng nắm tay nhau vượt qua bom đạn và gian khổ. Hôm nay, khi Cuba khó khăn, tiếng gọi 'anh em' lại vang lên.

Lãnh tụ Cuba Fidel Castro phất cờ của quân Giải phóng tại Tiểu đoàn Khe Sanh trong buổi gặp gỡ với các chiến sĩ tại Quảng Trị. Ảnh: TTXVN.

Lãnh tụ Cuba Fidel Castro phất cờ của quân Giải phóng tại Tiểu đoàn Khe Sanh trong buổi gặp gỡ với các chiến sĩ tại Quảng Trị. Ảnh: TTXVN.

Có những mối quan hệ trên thế giới được xây dựng từ lợi ích kinh tế, từ thỏa thuận chính trị. Nhưng cũng có những tình cảm được dựng nên bằng máu, mồ hôi và những cái nắm tay thật chặt trong gian khổ. Việt Nam và Cuba thuộc về kiểu thứ hai, thứ tình anh em hiếm có, vượt mọi khoảng cách địa lý.
Hơn sáu thập kỷ trước, khi Việt Nam chìm trong khói lửa chiến tranh, Cuba, quốc gia cách chúng ta nửa vòng trái đất, đã công khai ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Không chỉ là những lời chúc thắng lợi từ xa, Chủ tịch Fidel Castro đã tuyên bố câu nói bất hủ: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”.

“Tình đoàn kết Việt Nam-Cuba là tài sản vô giá của hai dân tộc. Chúng ta cùng nhau viết tiếp những trang mới của tình hữu nghị ấy bằng hành động cụ thể, để mỗi người dân Cuba cảm nhận rõ rằng, dù khoảng cách địa lý xa xôi nhưng Việt Nam luôn thủy chung, nghĩa tình, sẵn sàng sẻ chia với các bạn Cuba anh em.”

( Phát biểu của Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến tại Lễ phát động cấp quốc gia Chương trình vận động ủng hộ nhân dân Cuba với chủ đề: “65 năm nghĩa tình Việt Nam-Cuba”, ngày 13/8, tại Hà Nội)

Năm 1973, giữa lúc bom đạn chưa dứt, Fidel Castro trở thành nguyên thủ nước ngoài đầu tiên và duy nhất đặt chân tới vùng giải phóng Quảng Trị. Ông đội mũ chiến trường, nở nụ cười hiền hậu, nắm tay các chiến sĩ Việt Nam, như thể mình là một người lính thực sự. Hình ảnh ấy, hơn nửa thế kỷ sau, vẫn khiến bao thế hệ Việt Nam xúc động.
Những năm tháng ấy, hàng ngàn kỹ sư, bác sĩ Cuba đã sang Việt Nam, xây cầu, dựng bệnh viện, trồng cây, chữa bệnh… Bệnh viện Đồng Hới, con đường Xuân Mai, Sơn Tây… vẫn còn đó, như chứng tích của một tình bạn không tính toán.
Ngược lại, khi Cuba khốn khó vì cấm vận, Việt Nam đã gửi gạo, thuốc men, và mới đây nhất là thiết bị y tế, lương thực, dù chính mình cũng không dư dả. Trong đại dịch COVID-19, Cuba tặng Việt Nam hàng triệu liều vaccine Abdala – chia sẻ những gì quý giá nhất giữa lúc chính họ vẫn thiếu cho dân mình.
Hội chữ thập đỏ Việt Nam chủ trì việc kêu gọi các tầng lớp nhân dân Việt Nam ủng hộ nhân dân Cuba, đó không chỉ là một nghĩa cử nhân đạo. Đó là lời đáp lại một món nợ nghĩa tình. Chúng ta giúp Cuba không vì đây là “một quốc gia xa xôi”, mà vì đó là người anh em đã từng sát cánh bên ta trong những ngày đen tối nhất.
Với người Việt, nghĩa tình là thứ không thể cân đo bằng tiền. Ông bà ta dạy: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Mỗi đóng góp hôm nay, dù nhỏ, vẫn là một lời động viên, một cái nắm tay gửi qua đại dương, để người Cuba biết rằng giữa trùng khơi, vẫn có một Việt Nam nhớ và thương họ.
Thế giới đổi thay, nhiều mối quan hệ quốc tế nay còn mai mất. Nhưng tình Việt- Cuba là minh chứng rằng tình anh em có thể tồn tại lâu bền, bởi nó được xây dựng trên lòng tin và sự thủy chung. Đó là di sản ngoại giao mà chúng ta cần gìn giữ, để thế hệ mai sau hiểu rằng: đã là bạn, là anh em, thì dù cách nhau vạn dặm, vẫn luôn gần như gang tấc.

Biên niên sử 65 năm tình cảm đặc biệt Việt Nam – Cu ba

Cuối năm 1960, Thứ trưởng Ngoại giao Cuba là ông Héctor Rodríguez Llompart được giao sang thăm và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là quốc gia châu Mỹ đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, khi đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh.
Tháng 11/1961, nhóm 23 học viên Việt Nam đã có mặt tại Thủ đô La Habana để học tiếng Tây Ban Nha.
Ngày 26/6/1965, phát biểu trước Đoàn đại biểu thanh niên Cuba tại La Habana, Tổng Tư lệnh Fidel Castro khẳng định sự ủng hộ tuyệt đối dành cho Việt Nam - người bạn ở phía bên kia bán cầu, đang chiến đấu giành độc lập trước cuộc xâm lược của Mỹ. Trong thông điệp gửi tới thế hệ trẻ Cuba, ông nhiều lần nhấn mạnh cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa, và Cuba nguyện đồng hành, chia sẻ trong sự nghiệp vĩ đại đó.
Ngày 2/1/1966 tại Quảng trường Cách mạng ở thủ đô La Habana, trong lễ kỷ niệm 7 năm Cách mạng Cuba, lần đầu tiên Fidel đã nói câu nói để đời, khắc sâu vào ký ức nhân dân hai nước: "Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình". Sau này, câu nói ấy được Fidel nhắc lại rất nhiều lần.
Tháng 9/1973, Tổng Tư lệnh Fidel Castro lần đầu đến Việt Nam. Giữa trưa nắng gắt Hà Nội, ông bước xuống cầu thang chiếc máy bay IL-18 trong sự chào đón nồng nhiệt của các lãnh đạo cấp cao: Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng; Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp…
Sau đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp đưa Fidel đi thăm Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Tại đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gắn huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên" lên ngực áo người bạn Cuba.
Trong chuyến thăm này, Fidel Castro đã đến Quảng Trị, đứng trên cao điểm 241 - căn cứ Carol cũ của Mỹ. Trước vòng vây chiến sĩ, ông giương cao ngọn cờ chiến thắng, dõng dạc tuyên bố: "Cảm ơn các bạn. Hãy mang lá cờ bách chiến bách thắng này tiến lên cho đến thắng lợi cuối cùng!" và hô vang "Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình!".
Cho đến trước năm 1975, ông là nguyên thủ quốc gia đầu tiên và duy nhất đến thăm vùng giải phóng miền Nam.
Sau chuyến thăm Việt Nam, Chính phủ Cuba đã gửi tặng bộ đội Trường Sơn một dàn xe và máy móc làm đường hiện đại, trị giá 6 triệu USD. Cùng với đó, Cuba cử một lực lượng kỹ sư, công nhân kỹ thuật bậc cao sang phối hợp với Trung đoàn Công binh 515 thi công đường 42 từ Bến Tắt đi Cam Lộ (Quảng Trị) và nâng cấp đường 14 đoạn từ cầu Đakrông đi A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ cuối năm 1974.
Chủ tịch Fidel Castro cùng nhân dân Cuba cũng dành tặng Việt Nam 5 công trình kinh tế - xã hội quy mô lớn, tổng trị giá khoảng 80 triệu USD, gồm: Khách sạn Thắng Lợi (Hà Nội), Bệnh viện Việt Nam - Cuba (Đồng Hới, Quảng Bình cũ), Nhà máy đường Xuân Mai, Trại bò giống Ba Vì và Xí nghiệp gà Lương Mỹ.
Từ những năm 1970 đến nay, hàng nghìn sinh viên Việt Nam đã được đào tạo tại Cuba, trong đó nhiều người trở thành chuyên gia đầu ngành y tế, giáo dục và khoa học.
Từ năm 1961 đến 1975, Cuba đều đặn viện trợ khoảng 50.000 tấn đường mỗi năm và cử bác sĩ sang chăm sóc thương binh, bệnh binh. Gần một triệu sinh viên Việt Nam từng học tập tại Cuba trong giai đoạn này, sau khi trở về đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và quốc phòng.
Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế dự phòng, Cuba đã hỗ trợ vaccine phòng viêm màng não, bại liệt, uốn ván... cho trẻ em Việt Nam những năm 1980-1990.
Trong những năm qua, Việt Nam kiên định lập trường ủng hộ Cuba trong cuộc đấu tranh đòi chấm dứt bao vây, cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính. Nhiều phong trào hỗ trợ Cuba được phát động như 20.000 tấn gạo, 5 triệu suất giấy bút, 5.000 bộ quần áo, một ngày lương của cán bộ công chức... Việt Nam cũng bán gạo cho Cuba với giá ưu đãi, đồng thời triển khai nhiều dự án nông nghiệp và lương thực, góp phần bảo đảm đời sống cho nhân dân Cuba.
Tháng 3/1994, Việt Nam tặng Cuba 15.000 tấn gạo; tháng 5/1995 tiếp tục viện trợ thêm 20.000 tấn.
Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai và đối tác đầu tư lớn nhất ở Cuba đến từ khu vực châu Á và châu Đại Dương. Năm 2021, kim ngạch thương mại song phương đạt 261,7 triệu USD; năm 2022 đạt 181,8 triệu USD; năm 2023 đạt 57,33 triệu USD.

N.A

Lê Đức

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/viet-nam-cuba-xa-van-dam-ma-gan-gang-tac-10314370.html