Việt Nam đứng thứ hai khu vực ASEAN về triển khai IPv6

Thông tin trên được đưa ra tại Diễn đàn phát triển hạ tầng số Việt Nam 2025 diễn ra ngày 30/9.

Diễn đàn phát triển hạ tầng số Việt Nam năm 2025 diễn ra ngày 30/9 tại Hà Nội. Ảnh: Hà Anh/Mekong ASEAN.

Diễn đàn phát triển hạ tầng số Việt Nam năm 2025 diễn ra ngày 30/9 tại Hà Nội. Ảnh: Hà Anh/Mekong ASEAN.

Tại sự kiện, ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam nhận định quá trình phát triển hạ tầng số của Việt Nam thời gian qua đã có những bước tiến rõ rệt.

Ông Liên dẫn báo cáo của DataReportal cho biết, tính đến năm 2025, Việt Nam có hơn 80 triệu người sử dụng Internet. Tỷ lệ triển khai IPv6 (Giao thức liên mạng phiên bản 6) vượt ngưỡng 60%, đưa Việt Nam lên vị trí thứ hai trong khu vực ASEAN và đứng thứ chín trên toàn cầu trong lĩnh vực này. Đặc biệt, giai đoạn 2026-2030, Việt Nam dự kiến bước sang kỷ nguyên chỉ sử dụng IPv6.

Song song với đó, thị trường điện toán đám mây tại Việt Nam cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh. Năm 2024, quy mô đạt gần 19.375 tỷ đồng (khoảng 775 triệu USD), dự kiến tăng lên 1,24 tỷ USD vào năm 2025 và tiếp tục gấp đôi vào năm 2029.

Lĩnh vực trung tâm dữ liệu cũng chứng kiến sự bứt phá. Năng lực đạt 45 MW năm 2024, dự kiến tăng lên 525 MW năm 2025 và gần 1.000 MW vào năm 2030. Doanh thu từ dịch vụ colocation (cho thuê không gian đặt máy chủ hoặc thiết bị mạng) được kỳ vọng đạt 1,4 tỷ USD vào năm 2030.

Bên cạnh những kết quả ấn tượng, theo ông Vũ Hoàng Liên, Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức lớn như thiếu hụt nguồn lực đầu tư, yêu cầu về tiêu chuẩn xanh, an toàn - an ninh mạng, chủ quyền dữ liệu và năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) cốt lõi.

Với nền tảng trên, để Việt Nam xây dựng được một hạ tầng số vững mạnh phục vụ phát triển các công nghệ chiến lược, theo GS. Hồ Tú Bảo, Viện Nghiên cứu cao cấp về toán, cần đồng bộ trên 3 trụ cột chính gồm hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng dữ liệu và hạ tầng ứng dụng.

Với hạ tầng kỹ thuật, cần một hệ thống máy móc, thiết bị đầy đủ ở tất cả các tầng, từ người dùng cuối đến máy chủ, hệ thống lưu trữ và xử lý tín hiệu nâng cao; đồng thời bảo đảm kết nối mạng rộng khắp, tốc độ cao.

Đối với hạ tầng dữ liệu, dữ liệu quốc gia phải được xây dựng trên một kiến trúc thống nhất, cho phép chia sẻ và khai thác ở nhiều cấp độ. Điểm hạn chế hiện nay là nhiều cơ sở dữ liệu đã hình thành từ trước nhưng thiếu kiến trúc chung, dẫn đến khó khăn trong kết nối và chia sẻ.

Về hạ tầng ứng dụng, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ, đặc biệt trong triển khai dịch vụ công trực tuyến và ứng dụng AI cùng các công nghệ số ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng chưa sâu, chưa khai thác hết tiềm năng và chưa làm chủ được các công nghệ lõi.

Ngoài 3 trụ cột này, GS. Hồ Tú Bảo cho rằng yếu tố an toàn, an ninh mạng cũng cần được chú trọng bởi nếu thiếu nền tảng này, sẽ không thể mở rộng hay phát triển bất kỳ dịch vụ nào. Hạ tầng số cũng cần bảo đảm khả năng phòng vệ trước thiên tai, tấn công mạng, đồng thời xây dựng đội ngũ chuyên gia trình độ cao để làm chủ công nghệ.

Đồng thời, cần có khung pháp lý minh bạch, tránh chồng chéo, không cản trở sự phát triển hạ tầng số. Đặc biệt, phải sớm ban hành quy định về kiến trúc dữ liệu, tiến tới một kiến trúc tổng thể quốc gia số.

Ở góc độ quản lý, ông Nguyễn Huy, Trưởng ban Công nghệ, Hiệp hội dữ liệu quốc gia cho rằng hạ tầng số của Việt Nam cần có sự kết hợp của 3 yếu tố, đó là làm chủ các công nghệ quan trọng như công nghệ chuỗi khối (blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI)…; xây dựng một tiêu chuẩn chung để các hệ thống tương thích với nhau; hoàn thiện chính sách để bắt buộc dữ liệu phải được xác thực.

Hà Anh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/viet-nam-dung-thu-hai-khu-vuc-asean-ve-trien-khai-ipv6-46811.html