Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để huy động vốn từ cả thị trường trong nước lẫn quốc tế

Câu chuyện về nguồn lực cho phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở các dự án xanh, mà thực chất là bài toán tổng thể của nền kinh tế khi đứng trước những mục tiêu tăng trưởng lớn.

Ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam (ADB).

Ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam (ADB).

Phát biểu tại Hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức, ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam (ADB) đã đưa ra những phân tích sắc sảo về khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế huy động vốn, đồng thời chỉ ra những dư địa chưa được khai phá của thị trường tài chính Việt Nam.

Mở đầu phần chia sẻ về kinh nghiệm quốc tế, ông Nguyễn Bá Hùng nhấn mạnh một nguyên tắc nền tảng: “Khi nói về phát triển bền vững thì sẽ không tách rời khỏi phát triển chung”. Theo đó, ông đã phác họa bức tranh nhu cầu vốn khổng lồ của Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể, trong 5 năm tiếp theo, nhu cầu đầu tư công ước tính cần huy động từ 50-70 tỷ USD. Đối với đầu tư toàn xã hội, tỷ trọng trên GDP dự kiến sẽ tăng từ mức 32% hiện nay lên 40%, tương đương mức tăng thêm khoảng 250 - 350 tỷ USD trong vòng 5 năm...

Tuy nhiên, thách thức thực sự lộ diện khi đặt nhu cầu vốn này cạnh tham vọng tăng trưởng của quốc gia. Dẫn chứng, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng từ năm 2026 trở đi là 10%. Để người nghe hình dung rõ hơn về độ lớn của con số này, ông Hùng đã thực hiện một phép so sánh với các nền kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Trong đó, ngay cả những “con rồng châu Á” như Hàn Quốc hay Singapore, trong giai đoạn 30 năm phát triển nhanh nhất, cũng chưa đạt được mức 10%. Các quốc gia khác như Thái Lan, Indonesia, Malaysia trong thời kỳ hoàng kim 30 năm của họ cũng chỉ đạt mức tăng trưởng khoảng 7%. Riêng với Việt Nam, thành tích tốt nhất trong 40 năm đổi mới là 6,8%. Những dữ liệu lịch sử này cho thấy, khoảng cách giữa kinh nghiệm thực tế và mục tiêu 10% là rất đáng kể, đây là một mục tiêu rất lớn.

Dư địa phát triển thị trường trái phiếu còn rất lớn

Trong bối cảnh áp lực tăng trưởng lớn như vậy, câu hỏi đặt ra là nguồn vốn sẽ đến từ đâu? Phân tích sâu vào cấu trúc nợ, Kinh tế trưởng ADB chỉ ra một bức tranh sáng sủa về dư địa tài khóa của Chính phủ.

Dư nợ trái phiếu chính phủ so với GDP của Việt Nam hiện chỉ xấp xỉ 20%. Điều này cho thấy mức độ an toàn tương đối cao và mở ra không gian lớn nếu Việt Nam muốn tăng đầu tư qua kênh này. Thêm vào đó, lãi suất trái phiếu chính phủ hiện chỉ dao động quanh mức 3-4%, thấp hơn nhiều so với mức 6-7% của các nước trong khu vực, tạo lợi thế về chi phí huy động vốn.

Về nợ công, nợ nước ngoài đã giảm tương đối nhanh trong 5 năm qua và đang ở ngưỡng an toàn cao, cho thấy Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa để huy động vốn từ cả thị trường trong nước lẫn quốc tế.

Trái với sự rộng lớn của kênh vốn chính phủ, thị trường vốn dành cho doanh nghiệp lại bộc lộ nhiều hạn chế về cấu trúc. Tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp trên tổng dư nợ trái phiếu toàn thị trường của Việt Nam còn thấp so với các nền kinh tế như Singapore, Thái Lan hay Malaysia. Đáng chú ý, nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trái phiếu chính phủ Việt Nam gần như bằng 0, trong khi tỷ lệ này ở nhiều nước có thể lên đến 20%.

Một điểm nghẽn lớn khác nằm ở kỳ hạn vốn. Theo thông lệ quốc tế, doanh nghiệp tìm đến trái phiếu để vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, hơn một nửa thị trường trái phiếu Việt Nam đang huy động ở kỳ hạn 1-3 năm, còn kỳ hạn trên 10 năm lại rất thấp, cho thấy thị trường trái phiếu Việt Nam chủ yếu chỉ đang cung cấp vốn ngắn đến trung hạn. Hơn nữa, tính thanh khoản của thị trường thứ cấp đối với trái phiếu doanh nghiệp rất thấp, gần như không có giao dịch, dẫn đến rủi ro thanh khoản cao cho nhà đầu tư khi muốn quy đổi ra tiền mặt.

Giải bài toán phụ thuộc nhiều vào ngân hàng bằng thị trường vốn

Sự kém phát triển của thị trường vốn dẫn đến hệ quả là nền kinh tế vẫn phụ thuộc quá lớn vào hệ thống ngân hàng. Ông Hùng cho biết, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang chịu áp lực lớn khi có sự phụ thuộc khoảng 40% vào dư nợ cho vay trung dài hạn.

Vấn đề đặt ra là làm sao vừa duy trì tăng trưởng tín dụng phục vụ phát triển, vừa giảm được tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP để đảm bảo an toàn vĩ mô. Lời giải cho bài toán này là nằm ở sự dịch chuyển sang thị trường vốn.

“Một mặt GDP sẽ tăng, nhưng mặt khác cũng phải trông vào thị trường vốn, tức thị trường trái phiếu, lúc đó tỷ lệ dư nợ mới có thể giảm được”, ông Hùng nói.

Khi thị trường trái phiếu phát triển tốt, nền kinh tế hoàn toàn có thể quy đổi dư nợ tín dụng ngân hàng sang dư nợ trái phiếu, biến đây thành kênh cung cấp tín dụng bổ sung hiệu quả. Về lâu dài, trái phiếu cần được phát triển mạnh vì đây là kênh huy động vốn dài hạn ổn định nhất mà doanh nghiệp có thể thực hiện.

Bên cạnh trái phiếu, thị trường cổ phiếu cũng được nhắc đến như một kênh huy động vốn dài hạn tiềm năng nhưng chưa được khai thác đúng mức. Mặc dù thị trường chứng khoán hiện nay khá sôi động, nhưng sự sôi động này chủ yếu diễn ra ở thị trường thứ cấp (mua đi bán lại).

Ông Bá Hùng khẳng định, vai trò huy động vốn của thị trường sơ cấp vẫn còn nhiều dư địa. Giải pháp được đưa ra là thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường phát hành cổ phần ra công chúng (IPO) để huy động thêm vốn chủ sở hữu. Đây được xem là nguồn vốn rất dài hạn, giúp doanh nghiệp xây dựng nền tảng tài chính vững chắc để mở rộng quy mô đầu tư.

Qui Ánh

Nguồn ĐTCK: https://tinnhanhchungkhoan.vn/viet-nam-van-con-nhieu-du-dia-de-huy-dong-von-tu-ca-thi-truong-trong-nuoc-lan-quoc-te-post382218.html