Vinh quang của mẹ
Nhắc đến thiền sư, người ta thường nghĩ ngay đến những cơ phong huyền diệu, chỗ ngộ sâu xa hay đạo phong cao vút. Nhưng bên cạnh đó, đời sống và những câu chuyện dung dị thường ngày của các ngài còn là một tấm gương sáng ngời đáng để cho hàng tứ chúng noi theo.
Chính từ đời sống ấy, đã lưu lại biết bao câu chuyện đời thường cảm động, khiến người sau càng thêm kính phục. Chuyện lá thư của mẹ Thiền sư Động Sơn-Lương Giới (đời Đường, Trung Hoa) đã khắc họa nên hình ảnh một người mẹ chân quê, hiền từ, thương con, hiểu đạo, luôn dõi theo con suốt chặng đường tu hành.
Thư viết: “Mẹ cùng con vốn có duyên đời trước, cho nên đời này mới kết thành tình mẹ con sâu nặng. Từ khi mới mang thai, ngày đêm mẹ luôn cầu thần khẩn Phật nguyện ước sanh được con trai. Đến lúc tháng ngày đã đủ, hạ sanh ra con thì mạng mẹ như chỉ mành treo chuông. Ước nguyện đã thành, mẹ quý con như trân bảo, chẳng hiềm phân tiểu hôi dơ, nào ngại bú mớm lao khổ. Đến khi vừa lớn thì cho con đến trường, hoặc như có lúc tạm thời con đi chưa về thì tựa cửa ngóng trông. Hôm nay, con gởi thư về, quyết chí xuất gia, ở nhà cha thì mất sớm, mẹ thì già nua, anh thì ốm đau, em thì còn nhỏ, ta biết nương tựa vào ai? Con có tâm bỏ mẹ, mẹ nào có ý xa con! Từ khi con bỏ nhà đến phương xa, thì lòng mẹ ngày đêm đau như cắt, than khóc buồn lo. Khổ thay! Khổ thay!
Nay con đã thề chẳng trở về, mẹ cũng thuận chí theo con. Mẹ chẳng cầu mong con như Vương Tường nằm trên băng tuyết hay Đinh Lan khắc tượng gỗ, mà chỉ mong con như Tôn giả Mục-kiền-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân, chứng thành Phật quả. Nếu chẳng được như thế, thì mãi mãi thầm trách, tha thiết mong con hiểu được”.
Thiền sư Động Sơn-Lương Giới, xuất gia đắc pháp nơi Thiền sư Tào Sơn-Bổn Tịch, về sau khai sáng ra dòng thiền Tào Động - một dòng thiền được truyền bá rộng rãi ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Ngài là gương mẫu, là thân giáo để tứ chúng noi theo tu tập; lời dạy và hạnh đức của ngài được ca tụng và truyền mãi cho đến ngày sau. Thông qua lá thư, chúng ta thấy quan niệm của mẹ ngài: Chẳng phải do ngẫu nhiên mà được kết thành tình thâm mẫu tử, ấy phải do nhân duyên nhiều đời đã cùng nhau vun trồng. Huống nữa ngài sinh ra và lớn lên trong sự mong ước và khẩn cầu của mẹ. Với bà, ngài quý giá hơn vàng ngọc, có khi phải trải qua lằn ranh sống chết mới có được. Đến khi con lớn, ra đi mẹ lại tựa cửa ngóng trông. Vì mẹ biết nếu giữ con bên mình thì con không thể trưởng thành. Nhưng cho con đi, lòng mẹ lại thấp thỏm không yên. Mẹ sợ con bước vào đời gặp điều bất trắc, sẽ không ai ở bên con để nâng đỡ vỗ về, sợ con đau ốm mà không ai hay, sợ con có ấm ức không biết tìm ai mà chia sẻ. Mẹ đã phải tự mình vượt qua những ưu tư ấy. Đối với mẹ, ước nguyện ban đầu, mẹ chỉ mong rằng con được trưởng thành, khôn lớn làm người có ích cho gia đình và xã hội. Đó là mong ước lớn nhất của mẹ ngài Lương Giới và cũng là mong ước chung của những bậc làm cha mẹ.
Trong kinh Tăng chi bộ (chương Năm pháp, phẩm Sumanā, kinh số 39) có đoạn: “Thấy năm điều này, này các Tỷ-kheo, mẹ cha muốn con trai sanh trong gia đình. Thế nào là năm? Ðược giúp đỡ, sẽ giúp đỡ chúng ta; hay sẽ làm công việc cho chúng ta; sẽ duy trì lâu dài truyền thống gia đình; sẽ tiếp tục di sản thừa hưởng; sẽ cúng dường hiến vật cho các hương linh bị mệnh chung”. Đức Phật nêu lên những mong ước của bậc cha mẹ về người con của mình, đó là: Đứa con là người sẽ tiếp nối mạng mạch của dòng tộc, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu, giúp đỡ công việc gia đình, giữ gìn danh tiếng tổ tiên, quản lý và thừa kế tài sản, làm phước và hồi hướng công đức cho cha mẹ qua đời. Đó là những nguyện ước rất đỗi chân thực và sâu sắc của những bậc cha mẹ. Qua đó kinh văn cũng nói lên bổn phận của người con hiếu hạnh phải làm tròn được những việc ấy, khiến cha mẹ đẹp lòng. Tuy nhiên, Thiền sư Lương Giới lại không chọn đi theo con đường đó, một con đường được xem là quy chuẩn của xã hội. Vì ngài biết rằng có một cách báo hiếu còn cao thượng hơn thế.
“Con vẫn biết đời vô cùng đau khổ
Chữ hiếu vai mang đâu chỉ một đời
Nên lặng lẽ theo dấu chân Từ phụ
Múc nước cam lồ trả ân nặng trùng khơi”.
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Thiền sư Lương Giới đã chọn con đường xuất gia, trở thành đệ tử Phật, và mẹ của ngài, dù không muốn rời xa nhưng vẫn chấp nhận cho con được thỏa chí nguyện, để lòng mẹ giằng xé rất nhiều. Quyết định này có khi khiến mẹ phải sống trong cảnh nhớ nhung và trống vắng. Song, nỗi niềm ấy không lớn bằng tình thương con của mẹ. Bà hiểu rằng yêu con không phải là giữ con lại bên mình, mà để con được sống trọn vẹn với ước mơ. Khi con được sống là chính con, mạnh mẽ giữa cuộc đời, đó chính là hạnh phúc lớn nhất của mẹ. Tình thương của mẹ bấy giờ là âm thầm nâng đỡ, dõi bước theo con. Tình mẫu tử ấy thiêng liêng vượt lên những lề lối cũ. Con của mẹ đã thoát tục xuất trần thì mẹ của con cũng phải mạnh mẽ cao thượng. Mẹ không trông chờ con phải thể hiện chữ hiếu thông qua việc “rót nước, bưng cơm”, chỉ mong sao con sớm thành tựu đạo nghiệp, sống trọn được với gia tài của Phật. Khi con thành công trong sự nghiệp tu hành thì cũng là lúc con đã trả hiếu xong cho mẹ. Mẹ sẽ thực hành pháp môn giải thoát, đi theo con đường sáng của Phật, để từ đó không còn khổ đau. Ước mong của mẹ nay được kết thành trái ngọt, ngài Lương Giới đã trở thành vị thiền sư đức hạnh, danh thơm vang khắp, làm mô phạm cho muôn người. Dưới cơ thiền giáo hóa của thiền sư, môn đồ đệ tử nhiều không kể xiết. Đạo hạnh của ngài đã thành cũng là lúc nguyện ước của mẹ đã toại.
“Phụ mẫu tại tiền như Phật tại thế
Con xuất gia cũng hiểu lẽ vuông tròn
Muốn cung dưỡng không gì bằng phước huệ
Không gì bằng ân đức Từ Tôn”.
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Chớ bảo người xuất gia là không biết giữ đạo hiếu, chỉ là cách thể hiện sự hiếu kính ấy không giống người thế gian. Thay vào đó thể hiện bằng việc ngày đêm nỗ lực, tinh tấn tu hành, khắc phục những ham muốn và mềm yếu của bản thân, thẳng tiến trên con đường Giới-Định-Tuệ. Cách người xuất gia báo hiếu không chỉ dừng lại trên phương diện hình thức vật chất, mà còn lấy tự thân làm hình mẫu lý tưởng của đời sống giải thoát, cốt yếu làm sao gieo được hạt giống đức tin Tam bảo nơi cha mẹ, đồng thời giúp cho bậc sinh thành có một đời sống tỉnh thức và chánh tín, biết từ bỏ việc ác, làm các việc lành, mở lòng bố thí, tu tập theo Chánh pháp, có được niềm vui chân thật vững bền. Chính điều ấy mới thực là cách báo hiếu sâu sắc và tròn đầy nhất. Hiếu đạo không chỉ là chuyện phụng dưỡng cơm cháo thuốc thang, mà còn mở ra đường sáng cho cha mẹ đi vào nẻo thiện. Đó là điều mà chư vị thiền sư hay những hành giả xuất sĩ đã và đang làm.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng ghi nhận nhiều tấm gương hiếu đạo của chư vị thiền tổ như: Chuyện Thiền sư Tông Diễn một lòng độ mẹ sanh thiên, Thiền sư Liễu Quán nhiều năm chẻ củi kiếm tiền nuôi cha, Thiền sư Nhất Định dựng am tranh phụng dưỡng mẹ già v.v… Những câu chuyện ấy không chỉ làm lay động lòng người mà còn khẳng định rằng, đạo Phật chưa từng rời xa chữ hiếu. Đối với người xuất gia mà nói, nếu sống trọn vẹn với lý tưởng giải thoát đồng nghĩa là đang báo hiếu. Chính khi ấy, đạo hiếu và đạo giác hòa làm một. Thế nên, sự thành tựu đạo nghiệp của con chính là vinh quang của mẹ.
Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/vinh-quang-cua-me-post77291.html